Tuesday, August 31, 2010

"Hòa giải hòa hợp" với csVN là tự nguyện làm tay sai, đầy tớ, là đồng lõa với lũ BÁN NƯỚC DIỆT CHỦNG

Trích

Con Đường Hoà Giải Dân Tộc
Đỗ Ngọc Uyển

Trong suốt dòng lịch sử kể từ khi lập quốc cho tới ngày nay, dân tộc Việt Nam chưa có thời kỳ nào bị phân hoá và chia rẽ trầm trọng như thời kỳ dưới sự thống trị của Hồ Chí Minh và băng đảng Việt Cộng. Sự phân hoá và chia rẽ dân tộc mỗi ngày một thêm trầm trọng và đã di căn vào mọi ngõ nghách trong cơ thể xã hội và đang biến chứng thành một cơ thể liệt kháng, không còn đủ khả năng và ý chí chống lại mưu đồ bành trướng ngàn đời của quân Đại Hán từ phương bắc hiện đang đè nặng lên đất nước và được nội ứng bởi bọn Việt gian cộng sản. Do đó, hoà giải dân tộc để thống nhất ý chí và tư tưởng là một nhu cầu lịch sử có tính sinh tử. Tuy nhiên, công việc này chỉ có thể thực hiện được sau khi chế độ độc tài toàn trị Việt Cộng bị thanh toán, bởi vì chính chế độ phi dân tộc này đã là thủ phạm của những tội ác gây phân hoá và chia rẽ dân tộc từ hơn nửa thế kỷ nay. Cộng Hoà Nam Phi đã thực hiện được hoà giải dân tộc sau khi chế độ phân biệt chủng tộc bị xoá bỏ. Với sự trợ giúp về pháp lý và tài chánh của cộng đồng quốc tế, dân tộc Căm Bốt đang thực hiện hoà giải dân tộc sau khi chế độ cộng sản Khờ Me Đỏ bị tiêu diệt. Đây là mẫu hình cần nghiên cứu để áp dụng vào Việt Nam sau này.

Tội Ác Của Hồ Chí Minh Đối Với Dân Tộc Việt Nam

Kể từ khi nhận lệnh của Đệ Tam Quốc Tế để thành lập Đảng Cộng Sản Việt Nam vào ngày 3/2/1930 cho tới ngày hôm nay, Hồ Chí Minh và đồng đảng - với chủ trương đấu tranh tiêu diệt giai cấp - đã gây muôn vàn tội ác nhằm phân hoá và chia rẽ dân tộc để dễ bề thống trị đất nước. Những tội ác của Hồ Chí Minh đối với dân tộc Việt Nam cũng chính là những tội ác của Stalin đối với dân tộc Nga. Hồ Chí Minh - một tên Bolshevik thâm căn - là tên học trò trung thành và xuất sắc của Stalin. Đối với Hồ Chí Minh, Stalin là một lãnh tụ thần tượng không bao giờ sai lầm. Hồ Chí Minh đã tôn thờ Stalin là cha già của thế giới xã hội chủ nghĩa trong đó có Miền Bắc xã hội chủ nghĩa mà Hồ Chí Minh là đầu đảng. Những tội ác của Stalin đã được chế độ Liên Xô bưng bít từ hơn nửa thế kỷ nay. Nhưng mới đây, Tổng Thống Nga Dmity Medvedev - sau một thời gian chờ đợi lâu dài - đã công bố trước thế giới những tội ác khủng khiếp, dã man của Stalin và chế độ Liên Xô.

Ngày 7/5/2010 - hai ngày trước lễ kỷ niệm được tổ chức tại Nga để đánh dấu 65 năm ngày chấm
dứt Thế Chiến II tại Âu Châu - trả lời cuộc phỏng vấn của nhật báo Izvestia, Tổng Thống Medvedev đã công bố những tội ác của chế độ Liên Xô và của Stalin đã bị che giấu từ hơn một nửa thế kỷ nay như sau:


Chế độ trị vì ở Liên Xô không thể xác định bằng cách nào khác hơn là một chế độ độc tài toàn trị. Thật không may, đây là một chế độ đàn áp các quyền tự do cơ bản của con người, và không chỉ với người dân của chính mình mà với cả nhân dân của các nước nằm trong khối cộng sản cũng đã gần nửa thế kỷ chịu chung một số phận tương tự. Đây là tôi muốn nói tới các nước xã hội chủ nghĩa khác. Điều này không thể bị xoá khỏi lịch sử. (Người viết chú giải: Đây là những tội ác chống nhân loại, (crimes against humanity), của chế độ độc tài toàn trị Liên Xô đối với người dân Nga. Chế độ Việt Cộng hiện nay - cũng là một chế độ độc tài toàn trị kiểu Stalin - đã và đang gây những tội ác chống nhân loại - tức tội đàn áp các quyền tư do cơ bản của con người - đối với dân tộc Việt Nam).
Các sĩ quan Ba Lan bị sát hại ở Katyn năm 1940 đã bị giết theo lệnh của chính quyền Liên Xô trong đó có Joseph Stalin. (Người viết chú giải: Đây là tội ác xâm lược, (the crime of aggression), đối với Ba Lan và tội ác chiến tranh, (war crimes), tội giết tù binh Ba Lan. Việt Cộng - vói sự yểm trợ và tiếp vận của khối Đệ Tam Quốc Tế - cũng đã phạm tội ác xâm lược đối với VNCH trong tháng 4/1975 và rất nhiều tội ác chiến tranh như cướp bóc, (pillaging), giết người vô luật pháp, (extrajudicial execution)…).
Stalin là kẻ giết người hàng loạt. Ông ta là kẻ sát nhân với số lượng lớn. Tội ác đó không thể tha thứ được. (Người viết chú giải: Đây là tội ác diệt chủng, (the crime of genocide). Stalin đã giết 6,000,000 người Ukraine bằng cách gây ra nạn đói giết người trong mùa đông năm 1932-1933. Hồ Chí Minh cũng phạm tội ác diệt chủng đối với dân tộc Việt Nam. Trong vụ cải cách ruộng đất tại Miền Bắc, Hồ Chí Minh đã bức hại và giết 700,000 người, tức 5% trong số 14 triệu nông dân Miền Bắc).
Stalin chính là tên tội đồ của dân tộc Nga. (Người viết nhận định: Hồ Chí Minh cũng chính là tên tội đồ của dân tộc Việt Nam).
Nếu ngày hôm nay nhắm mắt trước tội ác này (tội ác giết tù binh Ba Lan của Stalin tại khu rừng Katyn) thì trong tương lai những tội ác như vậy sẽ có thể lặp lại ở dạng này hay dạng khác, ở nước này hay nước kia. Những tội ác tày trời như vậy không bao giờ hết thời hiệu pháp lý. Những người gây tội ác bất cứ là ai, bất kể thời gian là bao nhiêu năm cũng phải chịu trách nhiệm. Đây là trách nhiệm đạo đức, một sự kiện đáng để cho các thế hệ tương lai rút kinh nghiệm. (Người viết nhận định: những tội ác giết người như trên đây đã diễn ra tại Việt Nam. Trong tết Mậu Thân năm 1968, cộng sản đã giết và thủ tiêu 6,000 người dân tại Huế. Sau tháng 4/1975, cộng sản đã xử tử một cách phi pháp, (extrajudicial execution), 100,000 quân dân cán chính VNCH. Tố cáo những tội ác của Việt Cộng là trách nhiệm đạo đức của mọi người Việt Nam. Những tội ác này không bao giờ hết thời hiệu pháp lý).
Sự trở lại của chủ nghĩa Stalin đã bị loại trừ. (Người viết nhận định: chủ nghĩa Stalin vẫn còn được Việt Cộng tôn thờ và chúng còn đang áp đặt một cách thô bạo lên dân tộc Việt Nam).

Những tội ác kể trên của Stalin và Hồ Chí Minh là những tội ác đại hình có tính quốc tế được dự liệu tại Đạo Luật Rome và thuộc quyền tài phán của Toà Án Hình Sự Quốc Tế. Cho tới ngày hôm nay, những tên đầu sỏ Việt Cộng còn đang câm miệng hến trước những tội ác được công bố trên đây bởi vì đó là những sự thật không thể chối cãi.

Khi công bố những tội ác của Stalin và của chế độ Liên Xô đối với nhân dân Nga và nhân dân các nước xã hội chủ nghĩa trong khối Xô Viết, Tổng Thống Medvedev đã mở ra một chương mới trong lịch sử thế giới, dẫn tới việc xét lại toàn bộ tội ác của chế độ Liên Xô đã bị che giấu từ năm 1917 tới năm 1991 cũng như những tội ác đã bị che giấu trong hệ thống các nước xã hội chủ nghĩa theo mô hình Stalin từ hơn nửa thế kỷ nay trong đó có chế độ Việt Cộng mà tên đầu đảng là Hồ Chí Minh. Những công bố trên đây của Tổng Thống Medvedev vào thời điểm này - tiếp theo sau Nghị Quyết số 1481 năm 2006 của Nghị Viện Âu Châu lên án các chế độ cộng sản - là bước cuối cùng tiến tới việc vứt bỏ toàn bộ chủ nghĩa cộng sản vào thùng rác lịch sử của nhân loại.

Tội Ác Của Cộng Sản Đối Với Đồng Bào Miền Nam Việt Nam

Không giấy mực nào có thể ghi hết những tội ác của Hồ Chí Minh và băng đảng Việt Cộng đối với dân tộc Việt Nam trong suốt 80 năm nay. Tuy nhiên, nhằm mục đích chứng minh rằng những chia rẽ do Việt Cộng gây ra là không thể hoà giải được chừng nào chúng còn thống trị đất nườc, bài viết này chỉ thu hẹp vào một số ít tội ác tượng trưng của Việt Cộng đối với đồng bào Miền Nam kể từ sau ngày 30-4-1975 cho tới ngày hôm nay, và từ đó có thể suy ra những tội ác của chúng đối với toàn thể dân tộc Việt Nam.

Khi xâm lăng VNCH, Việt Cộng đã hành xử như một đạo quân thực dân đi xâm lược đô hộ một quốc gia thù địch mà một nhà báo người Pháp đã nhận định rằng đây là một kiểu thực dân nội địa, (auto-colonisation). Với tính cách là đạo quân xâm lược, băng đảng Việt cộng chính là kẻ thù của toàn dân Miền Nam, giặc từ Miền Bắc vô Nam! Ngay khi chiếm được Việt Nam Cộng Hoà, chúng lập tức xoá bỏ chính quyền chính thống quốc gia đương nhiệm, bỏ tù tất cả quân cán chính VNCH dưới cái nguỵ danh “học tập cải tạo” để trả thù. Chúng thành lập một chính quyền đô hộ thực dân nội địa từ trung ương tới địa phương gồm toàn những cán binh, cán bộ của chúng từ Miền Bắc đưa vào với cung cách hành xử theo một thứ “văn hoá xã hội chủ nghĩa” rừng rú rất xa lạ với đồng bào Miền Nam. Với chính quyền thực dân nội địa độc tài trong tay, chúng áp dụng một phương pháp cai trị bằng khủng bố và kìm kẹp rất dã man mà chúng đã có kinh nghiệm từ Miền Bắc, và cùng lúc, chúng phạm những tội ác gây xung đột và chia rẽ trầm trọng giữa chúng với người dân Miền Nam và giữa người Việt với người Việt.

Phương Pháp Cai Trị Bằng Khủng Bố và Kìm Kẹp

So với phương pháp cai trị bằng cách chia để trị của thực dân Pháp, phuơng pháp cai trị bằng khủng bố và kìm kẹp của băng đảng Việt Cộng đã chứng tỏ rằng chúng là bậc thày:

a) Với chính sách hộ khẩu và tem phiếu lương thực, trong thực tế, cộng sản đã chỉ định nơi cư trú, kiểm soát sự di chuyển và cái dạ dầy của người dân Miền Nam. Đây là một hình thức giam lỏng. Với chủ trương thâm độc “ăn không no, đói không chết”, hàng tháng chúng cung cấp cho mỗi người 12kg gạo hay bo bo - một loại lương thực để nuôi gia súc - quy ra gạo cùng với 200gr đường và vài lạng thịt… Với chính sách nuôi ăn như nuôi súc vật, nuôi tù trên đây, cộng sản tin rằng quanh năm suốt tháng người dân chỉ mải miết lo cái ăn và không còn tâm trí để chống lại chúng, và nếu người nào chống đối, chúng sẽ cắt tem phiếu lương thực và bao vây kinh tế, tức cắt nguồn sống. Tại Miền Bắc, vào năm 1956, chỉ vì tham gia vào phong trào Nhân Văn-Giai Phẩm - một phong trào đòi tự do dân chủ cho đồng bào Miền Bắc - mà nhà đại trí thức khoa bảng, giáo sư đại học Nguyễn Mạnh Tường đã bị cắt tem phiếu lương thực và bị bao vây kinh tế trong suốt 30 năm. Giáo Sư Nguyễn Mạnh Tường cùng với vợ con đã phải sống 30 năm ngắc ngoải như những “con ma đói” trong cái “thiên đường xã hội chủ nghĩa” Miền Bắc.

b) Với hệ thống công an khu vực dày đặc, cộng sản đã theo rõi và kiểm soát được tư tưởng và hành động của mọi người. Cộng sản tổ chức mỗi người dân là một điểm chỉ viên có bổn phận phải theo rõi, dò la, báo cáo hành động và tư tưởng của người khác ngay cả với cha mẹ, vợ chồng, anh chị em, con cái trong gia đình, và ngược lại, người điểm chỉ viên đó lại bị người điểm chỉ viên khác theo rõi và báo cáo… Cộng sản đã chủ tâm tạo một không khí khủng bố bao trùm trong xã hội, và mọi người luôn luôn sống trong sợ hãi và đề phòng bị ám hại. Với kiểu khủng bố này, cộng sản đã làm tê liệt ý chí và sức đối kháng của người dân.

c) Cộng sản đoàn ngũ hoá toàn dân để kiểm soát và theo rõi. Tất cả mọi người, bất kể già, trẻ, lớn, bé, đều phải tham gia vào một tổ chức do chúng kiểm soát như: đội nhi đồng cứu quốc, hội phụ nữ cứu quốc, đoàn thanh niên xung phong, hội nhà văn, hội trình diễn nghệ thuật…Trong các hội đoàn này, cộng sản tổ chức những buổi sinh hoạt định kỳ, và các hội viên phải thay phiên nhau “phê và tự phê” để tự tố cáo mình và tố cáo người khác về những hành vi, tư tuởng bị cho là sai trái với chủ trương, đường lối của đảng cộng sản. Từ những buổi sinh hoạt gọi là “phê và tự phê” này, cộng sản nhận diện được những người mà chúng cần theo rõi, đàn áp và thủ tiêu.

d) Với chính sách “học tập cải tạo”, Việt Cộng đã nâng kỹ thuật khủng bố của chúng lên hàng siêu đẳng. Chỉ cần một cái lệnh hành chánh của một chính quyền địa phương cấp thấp là đủ để chúng đưa một người dân lương thiện đi tù khổ sai từ ba năm tới chung thân với cái chiêu bài rất đểu giả là đi học tập để thông suốt đường lối của đảng, và khi nào học tập tốt, cải tạo tốt thì về. Vào năm 1956, tại Miền Bắc, cộng sản đã đưa Triết Gia Trần Đức Thảo - triết gia ngây thơ (?) đã trao tất cả nhiệt tình yêu nước cho tên phản quốc Hồ Chí Minh - đi học tập cải tạo bằng cách cho đi chăn bò tại nông trường Ba Vì để suy tư thêm về chủ nghĩa Mác-Lê chỉ vì tội tham gia phong trào Nhân Văn-Giai Phẩm. Sau tháng 4/1975, Việt Cộng đã đưa 1,000,000 quân dân cán chính VNCH đi tù cải tạo. Theo tài liệu của tổ chức Tưởng Niệm Nạn Nhân của Chủ Nghĩa Cộng Sản, “The Victims of Communism Memorial Foundation”,thì Hồ Chí Minh đã giết 850,000 người trong những trại tù cải tạo tại Miền Bắc. “… When Ho Chi Minh sent 850,000 Vietnamese to their graves in re-education camps”. Nếu ước tính số người chết trong các trại cải tạo là 15% thì số người bị Hồ Chí Minh đưa đi cải tạo tại Miền Bắc là 6,000,000 người. Tính chung lại, cộng sản đã đưa đi tù cải tạo 7,000,000 người, và nếu tính trung bình số năm tù của mỗi người là 7 năm thì số năm tù của 7,000,000 người là 49,000,000 năm. Trong khi đó, để tố cáo chế độ tù đày của thực dân Pháp, trong một bài diễn văn đọc ngày 1-5-1960, Hồ Chí Minh đã công bố rằng 31 thành viên đương nhiệm của ban chấp hành trung ương của Đảng Cộng Sản Việt Nam đã bị giam tổng cộng là 222 năm trong các nhà tù của thực dân Pháp.

Với phương pháp cai trị bằng khủng bố và kìm kẹp dã man trên đây, cộng sản đã coi người dân Miền Nam là những kẻ thù giai cấp không đội trời chung của chúng. Đây chính là bước đầu tạo ra chia rẽ không thể hoà giải giữa cộng sản và người dân Miền Nam. Bước tiếp theo là những tội ác dã man mà chúng đã vi phạm một cách quy mô và có kế hoạch.

Những Tội Ác Gây Chia Rẽ Giữa Việt Cộng và Đồng Bào Miền Nam

Theo luập pháp quốc tế, khi xâm lăng VNCH, cộng sản Bắc Việt đã phạm tội ác xâm lược một quốc gia độc lập có chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ. Và trong cuộc xâm lăng này, Việt Cộng đã phạm rất nhiều tội ác chiến tranh và tội ác chống nhân loại đối với đồng bào Miền Nam. Sau đây xin ghi lại một tội ác chiến tranh, tội cướp bóc, (pillaging).


Chúng ăn cướp 16 tấn vàng của ngân khố quốc gia và cấp tốc chuyên chở về Miền Bắc để những tên đầu sỏ dấm dúi chia nhau như quân cướp chia của ăn cướp.
Chúng ăn cướp các kho tàng của chính phủ, của quân đội và chuyên chở suốt ngày đêm về Miền Bắc bằng mọi phương tiện trong nhiều tháng trời.
Chúng cướp nhà của 3,000,000 người vượt biên để chia cho nhau.
Chúng bắt những người xuất ngoại phải hiến nhà cho chúng.
Chúng cưỡng bức 1.5 triệu đồng bào đi “vùng kinh tế mới” để cướp nhà.
Chúng cướp nhà của quân cán chính VNCH và chia cho nhau.
Chúng đánh tư sản mại bản để cướp tài sản, cửa hàng và kho hàng của tư thương.
Chúng ăn cướp các nhà máy, các xí nghiệp của tư nhân để thành lập các hợp tác xã của chúng.
Chúng ăn cướp tiền của đồng bào ký thác trong các ngân hàng.
Chúng ăn cướp tiền của dân bằng cách hạ thấp trị giá đồng bạc của VNCH và tổ chức đổi tiền 2 lần. Mỗi lần đổi tiền chúng chỉ trả lại cho một số ít để sinh sống trong một thời gian ngắn, và chúng cướp sạch số còn lại.
Chúng ăn cướp bất động sản của các tôn giáo.
Chúng dùng luật lệ rừng rú của chúng để cướp tất cả thổ cư của dân.
Chúng cướp đất tha ma, đất nghĩa địa.
Chúng cướp đất nông nghiệp của nông dân qua Luật Đất Đai ăn cướp của chúng.

Trong số những tội ác kể trên, tội cướp đất nông nghiệp của nông dân là tội ác dã man nhất. Tội ác chiến tranh này còn mang tính chất tội ác chống nhân loại bởi vì tội ác này cướp đi quyền sống của hàng chục triệu nông dân, chiếm hơn 70% dân số Miền Nam. Tội ăn cướp này đã diễn ra suốt 35 năm nay và còn đang tiếp tục. Hiện nay, trong khắp Miền Nam gần như thường xuyên có những đoàn nông dân hàng trăm người kéo nhau đi kiện và biểu tình kéo dài nhiều ngày, ăn chực nằm chờ, lây lất ngoài công viên, trên hè phố để đòi đất nông nghiệp và thổ cư bị bọn cầm quyền địa phương chiếm đoạt. Cho tới ngày nào cộng sản còn thống trị đất nước, tội ác này không thể chấm dứt bởi vì cướp đất của dân để bán đã mang lại nguồn lợi to lớn cho băng đảng Việt Cộng mà chúng không thể từ bỏ được.

Ngoài tội cướp bóc kể trên, Việt Cộng còn phạm rất nhiều tội ác chiến tranh và tội ác chống nhân loại đối với đồng bào Miền Nam một cách quy mô và có kế hoạch:


Tội đưa đi lưu đày, (deportation), 1.5 triệu đồng bào Miền Nam tại những nơi rừng thiêng nước độc mà chúng đặt cho cái nguỵ danh là “khu kinh tế mới”. Khí hậu khắc nghiệt tại những nơi lam sơn chướng khí này đã gây ra những cái chết cho nhiều chục ngàn người.
Tội xử tử một cách phi pháp, (extrajudicial, or summary, execution), 100,000 quân dân cán chính VNCH trong thời gian 10 năm kể từ sau tháng 4/1075, gây đau thương suốt đời cho cho hàng trăm ngàn thân nhân ruột thịt của họ.
Tội giết 160.000 người bằng cách đuổi theo pháo kích và bắn trực xạ trong nhiều ngày vào đoàn người chạy giặc suốt theo chiều dài của Tỉnh Lộ 7B từ Pleiku xuống duyên hải trong tháng 3/1975, để lại đau thương suốt đời cho hàng trăm ngàn thân nhân của họ.
Tội giam cầm phi pháp, (imprisonment without formal charge or trial), 1,000,000 quân dân cán chính VNCH trong những cái gọi là “trại cải tạo” với thời gian bị giam cầm là từ 3 tới 10 năm, và có nhìều người đã bị giam tới 17 năm. Tội ác này đã gây đau khổ tinh thần cho hàng triệu thân nhân ruột thịt của họ.
Tội ác thủ tiêu mất tích, (enforced disappearance of persons), 165,000 quân dân cánchính VNCH bị chết vì đòn thù trong các trại tù cải tạo. Hiện nay, Việt cộng còn đang chôn giấu 165,000 bộ hài cốt của những người này trong rừng núi với chủ tâm trả thù, gây thống khổ tinh thần suốt 35 năm nay cho hàng trăm ngàn cha mẹ, vợ chồng, anh chị em, con cái của họ.
Chế độ độc tài khủng bố ViệtCộng đã là nguyên nhân xô đẩy 3,000,000 đồng bào Miền Nam lao ra biển trên những con thuyền mỏng manh để đi tìm tự do, gây ra những cái chết thảm cho 700,000 đồng bào trên biển cả, để lại đau thuơng suốt đời cho hàng triệu cha mẹ, vợ chồng, anh chị em, con cái của họ.

Một số tội ác kể trên đã đủ để chứng minh rằng hầu hết các gia đình tại Miền Nam đều là nạn nhân của tội ác chiến tranh và tội ác chống nhân loại của băng đảng cộng sản. Chính những tội ác này đã gây ra hận thù và chia rẽ không thể hoà giải giữa Việt Cộng và đồng bào Miền Nam. Do đó, những thiện chí (?) kêu gọi hoà giải giữa cộng sản với người dân Miền Nam và với cộng đồng người Việt tỵ nạn cộng sản tại hải ngoại trong lúc này là đồng loã với những tội ác của chúng, là chuyện đặt cái cày trước con trâu.

Những Tội Ác Gây Chia Rẽ Giữa Người Việt và người Việt

Như đã trình bày ở trên, khi xâm lăng VNCH, Việt Cộng đã hành xử như một đạo quân thực dân đi xâm lược một quốc gia thù địch. Chúng thi hành một chính sách phân biệt đối xử nhằm chia rẽ dân tộc. Chúng gọi một cách mất dạy, láo xược toàn dân Miền Nam là “nguỵ”, và chúng tôn xưng một cách trâng tráo bọn Nam gian, bọn ăn cơm quốc gia thờ ma cộng sản, bọn nằm vùng và hàng triệu người được chúng đưa từ Miền Bắc vào xâm thực Miền Nam là “quần chúng cách mạng”. Chính sự phân biệt trên danh nghĩa này đã là nguyên nhân đầu tiên gây chia rẽ không thể hoà giải giữa người Việt với người Việt. Chỉ cần quan sát những sự kiện đã và đang diễn trong xã hội Miền Nam từ ngày 30/4/1975 đến nay sẽ thấy rõ sự chia rẽ trầm trọng giữa hai thành phần người Việt nói trên là không thể hoà giải được chừng nào cộng sản còn thống trị đất nước.


Chúng triệt hạ khoảng 50 nghĩa trang QĐVNCH trong toàn Miền Nam bằng cách đào các mộ phần, lấy hài cốt mang đi thủ tiêu và san thành bình địa; trong khi đó chúng xây cất rất “hoành tráng” một số tương đương các nghĩa trang liệt sĩ của chúng trong khắp các tỉnh thành Miền Nam. Đây là việc làm có chủ tâm gây chia rẽ không thể hoà giải giữa hàng triệu thân nhân của hai phe người Việt.
Chúng cố tình triệt hạ Nghĩa Trang Quân Đội Biên Hoà - nơi an nghỉ của 16,000 anh hùng tử sĩ của QLVNCH - bằng cách giật sập và mang đi thủ tiêu Bức Tượng Thương Tiếc. Chúng đập phá các mộ bia, san bằng các ngôi mộ, không cho thân nhân sửa sang, tảo mộ. Chúng chủ tâm để cho thời gian tàn phá di sản lịch sử quốc gia này; trong khi đó, cách đấy không xa, chúng xây cất một nghĩa trang liệt sĩ rất quy mô, “hoành tráng”, được canh gác, tu bổ, sơn phết hàng ngày, có cửa hàng bán đồ lưu niệm… Sự phân biệt đối xử đối với những người chết đã gây chia rẽ trầm trọng, không thể hoà giải giữa đồng bào Miền Nam và người của phe chúng.
Chúng đuổi hàng chục ngàn thương binh VNCH ra khỏi các quân y viện trong toàn Miền Nam để chiếm chỗ cho thương binh của chúng. Những người thương binh sa cơ, thất thế đã phải dìu nhau ra khỏi các quân y viện, lê lết trên đương phố với thương tích đầy mình. Cảnh tượng thương tâm này đã làm đau lòng đồng bào Miền Nam. Sự phân biệt đối xử dã man, vô nhân tính của Việt Cộng đã chồng chất thêm tội ác của chúng đối với đồng bào Miền Nam. Loài dã thú cũng không đối xử với đồng loại của chúng như băng đảng Việt Cộng đối xử với đồng bào của chúng!

Ngay sau ngày 30/4/1975, cộng sản đã đưa hơn một triệu người từ Miền Bắc vào Sàigòn để chiếm đoạt những căn nhà của hàng trăm ngàn người chạy giặc để lại và của gần một triệu người Sàigòn bị chúng đưa đi đày tại những “khu kinh tế mới”. Những “quần chúng cách mạng” khố rách áo ôm này cùng với quân chiếm đóng dép râu nón cối đã chiếm đoạt hết những khu phố biệt thự sang trọng nổi tiếng của Sàigòn như Công Lý, Duy Tân, Bà Huyện Thanh Quan, Yên Đổ…và các khu phố buôn bán sầm uất như Tự Do, Nguyễn Huệ, Lê Lợi, Gia Long, Lê Thánh Tôn…Chúng coi Sàigòn là chiến lợi phẩm để đem chia chác cho nhau. Người Sàigòn, một sớm một chiều, cảm thấy mình bị cướp trắng tay; Sàigòn đổi chủ, đổi tên; khắp ngõ, hẻm, phố phường, công sở…vang lên cái giọng the thé Bắc Kỳ 75 chói tai, lạ hoắc cùng với dép râu nón cối làm bẩn Hòn Ngọc Viễn Đông tráng lệ. Cái cảm thức mất mát này đã gây chia rẽ không thể hoà giải giữa những kẻ xâm thực và người dân của thành phố bị xâm thực.

Những người xâm thực Miền Bắc đã giành hết những chức vụ tại các công sở, công ty, xí nghiệp… có lương bổng cao. Một thí dụ điển hình là tại công ty hàng không quốc doanh có trụ sở tại Sàigòn, cho tới ngày hôm nay, hầu hết tiếp viên hàng không - một công việc có lương bổng rất cao - đều là người có gốc gác miền Bắc; người dân Miền Nam rất khó chen chân vào được. Sự kỳ thị này đã hình thành nên một giai cấp làm chủ là người Bắc và giai cấp làm công là người Nam. Sự chia rẽ này là không thể hoà giải được giữa nguời Việt và người Việt
Hàng trăm ngàn người – trong số 1.5 triệu người bị đưa đi đày tại những khu kinh tế mới – đã bỏ trốn, và khi trở về thì thấy ngôi nhà khang trang xây dựng bằng công lao, mồ hôi nước mắt của cả gia đình đã bị một kẻ lạ mặt từ Miền Bắc vào chiếm đoạt một cách “vô tư”, công khai và “hợp pháp”. Người bị cướp nhà phải sống lê lết trên vỉa hè, dưới mái hiên của nhà mình. Kẻ cướp và người bị cướp không thể hoà giải và sống chung hoà bình với nhau được.

Một số sự kiện trên đây đủ để chứng minh rằng chính sách thực dân nội địa và sự phân biệt đối xử của Việt Cộng đã gây chia rẽ trầm trọng giữa người Việt và người Việt. Chừng nào chúng còn thống trị đất nước thì không thể có hoà giải, và sự chia rẽ dân tộc càng trầm trọng thêm. Tất cả những tội ác của băng đảng Việt Cộng đối với đồng bào Miền Nam đã được chúng chủ trương và hoạch định từ trước chứ không phải là những sai lầm như một số luận điệu bao che cho tội ác của chúng và cho rằng chỉ cần một lời xin lỗi của chúng là đủ để hoà giải dân tộc.

Con Đường Hoà Giải Dân Tộc

Kể từ sau ngày 30/4/1975, Việt Cộng luôn luôn lớn tiếng huyênh hoang rằng chúng đã đại thắng và thống nhất được đất nước. Nhưng thực tế cho thấy suốt 35 năm nay và sẽ không bao giờ chúng có thể thống nhất được nhân tâm. Với sự yểm trợ và tiếp vận của khối Đệ Tam Quốc Tế, Việt Cộng có thể sử dụng vũ lực để thống nhất lãnh thổ. Nhưng với chính sách thực dân nội địa và chủ trương phân biệt đối xử “nguỵ-cách mạng” đã và đang diễn ra tại Miền Nam suốt 35 năm nay, chúng không thể thống nhất được nhân tâm mà chỉ làm băng hoại thêm tình đoàn kết dân tộc. Đây là một tội ác lịch sử. Tội ác này xoá bỏ cái gọi là “công thống nhất đất nước” mà chúng và tay sai đã hô hoán, kể công lếu láo suốt 35 năm nay để lừa bịp lịch sử.

Ngày 30-4-1975, đoàn quân xâm lăng cộng sản Miền Bắc chỉ chiếm được đất, chiếm được thành mà không chiếm được lòng dân thì đó không phải là đạo quân “đại thắng mùa xuân” như chúng reo hò mà chỉ là một đoàn quân ăn cướp, và thực tế 35 năm nay đã chứng minh sự thật này. Do đó, Việt Cộng - bọn “giặc cờ đỏ” - không có tư cách gì để đứng ra kêu gọi hoà giải dân tộc; chỗ đứng của chúng là trước vành móng ngựa để trả lời về những tội ác mà chúng đã phạm đối dân tộc suốt 80 năm nay.

Để hoà giải dân tộc, trước hết phải xác định được cái nguồn gốc và nguyên nhân đã gây chia rẽ dân tộc, và sau đó phải tìm một giải pháp công bằng để hoà giải giữa những người đã bị chia rẽ, xoá tan đi những sự thù hận và hàn gắn lại tình đoàn kết dân tộc để tạo sức mạnh và ý chí chống lại âm mưu bá quyền muôn đời của quân Đại Hán từ phương bắc hiện đang đe doạ trầm trọng đất nước với sự tiếp tay làm nội ứng của băng đảng Việt Cộng.

Như đã chứng minh ở trên, sự chia rẽ dân tộc hiện nay có nguồn gốc và cũng là nguyên nhân từ những tội ác có tính quốc tế mà Đảng Cộng Sản Việt Nam - một chi bộ của Đệ Tam Quốc Tế - đã phạm đối với dân tộc. Do đó, muốn hoà giải dân tộc, điều tiên quyết là phải thanh toán cái băng đảng tay sai quốc tế đã gây tội ác đối với dân tộc. Đây là nhiệm vụ lịch sử của toàn dân Việt Nam trong và ngoài nước. Với chiều hướng lịch sử hiện nay, chắc chắn rằng bằng cách này hay cách khác, toàn dân Việt Nam sẽ thanh toán được chế độ Việt Cộng như các dân tộc của những nước Đông Âu và Liên Xô đã làm. Phần còn lại là tìm một giải pháp hoà giải phù hợp với truyền thống văn hoá nhân bản của dân tộc.

Từ sau Đệ II Thế Chiến đã có hơn 30 quốc gia trên thế giới có chia rẽ nội bộ, và tùy theo nguồn gốc và tính chất của sự chia rẽ mà mỗi quốc gia tự tìm kiếm một phương pháp hoà giải dân tộc. Cho tới nay đã có nhiều phương pháp hoà giải dân tộc đã và đang được áp dụng tại nhiều quốc gia, đặc biệt là tại Cộng Hoà Nam Phi và Căm Bốt là hai trường hợp được cộng đồng thế giới đặc biệt quan tâm theo rõi. Riêng trường hợp Căm Bốt còn được cộng đồng thế giới trợ giúp về pháp lý và tài chánh - dự trù khoảng 50 triệu U.S. dollars. Hai phương pháp hoà giải này được dựa trên ba khái niệm: Sự Thật, Công Lý và Tưởng Nhớ, “The concept of Truth, Justice and Memory”. Sau đây xin trình bày về hai phương pháp hoà giải này:

I - Năm 1995, để hoà giải dân tộc, sau khi đã xoá bỏ được chế độ phân biệt chủng tộc, Cộng Hoà Nam Phi đã thành lập Hội Đồng Sự Thật và Hoà Giải, “Truth and Reconciliation Commission”, viết tắt là “TRC”, do Tổng Giám Mục Desmond Tutu - người đoạt giải Nobel Hoà Bình năm 1984 - cầm đầu. Hội đồng này gồm có ba uỷ ban.

1) Uỷ Ban Điều Tra Vi Phạm Nhân Quyền, “The Human Rights Violation Committee”, có nhiệm vụ điều tra những vi phạm nhân quyền trong thời gian từ 1960 đến 1994.
2) Uỷ Ban Tu Chỉnh và Bồi Thường, “The Reparation and Rehabilitation Committee”, có nhiệm vụ phục hồi phẩm giá cho những nạn nhân và đưa ra những biện pháp tu chỉnh và bồi thường thiệt hại.
3) Uỷ Ban Ân Xá, “The Amnesty Committee”, có nhiệm vụ cứu xét ân xá hay trừng phát những kẻ phạm tội ác nghiêm trọng.

Mục đích thứ nhất của Hội Đồng Sự Thật và Hoà Giải là nêu lên những vi phạm nhân quyền xấu xa và tồi bại của chính sách phân biệt chủng tộc. Mục đích thứ hai là nhìn nhận và bồi thường những tổn thất về vật chất và tâm lý mà những nạn nhân đã phải chịu đựng. Mục đích thứ ba là cổ vũ một tinh thần hưng phấn dân tộc, “national catharsis”.

Phương thức hoà giải dân tộc của Cộng Hoà Nam Phi dựa trên khái niệm Sư Thật đã có kết quả tốt đẹp đối với dân tộc Nam Phi bởi vì chính sách phân biệt chủng tộc chỉ gây ra những tội vi phạm nhân quyền trong phạm vi nội bộ quốc gia Nam Phi không giống như những tội ác có tính quốc tế đã gây ra thảm hoạ có tính nhân loại như “Boat People” mà băng đảng Việt Cộng đã phạm đối với dân tộc Việt Nam. Do đó, phương pháp hoà giải dân tộc của Nam Phi không thể mang áp dụng vào trường hợp Việt Nam sau khi chế độ Việt Cộng bị thanh toán.

II - Sau một thời gian dài bị chậm trễ vì những khác biệt giũa các phe phái chính trị trong nội bộ quốc gia và những áp lực quốc tế ủng hộ và chống đối, cuối cùng thì công lý đã tới với dân tộc Căm Bốt. Một Toà Án Đặc Biệt Căm Bốt có tên Anh Ngữ là “Extraordinary Chambers in the Courts of Cambodia” đã được thành lập tại Thủ Đô Nam Vang của Căm Bốt vào năm 2006 để xét xử những tên tội phạm đầu não của cộng sản Khờ Me đỏ về những tội ác diệt chủng, tội ác chiến tranh và tội ác chống nhân loại mà chúng đã phạm đối với dân tộc Căm Bốt trong thời gian từ 17/4/1975 đến 6/1/1979. Trong khoảng thời gian ba năm chín tháng, bọn cộng sản khát máu này đã giết 1.7 triệu người Căm Bốt từ trẻ thơ tới người già.

Toà Án Đặc Biệt Căm Bốt được thành lập bởi Chính Phủ Căm Bốt và Liên Hiệp Quốc. Để đáp ứng được tiêu chuẩn pháp lý quốc tế, Chính Phủ Căm Bốt và LHQ đã mời các thẩm phán và công tố viên quốc tế để cùng làm việc với các thẩm phán và công tố viên người Căm Bốt. Ngày 31-7- 2007, các đồng thẩm phán điều tra, “the co-investigating judges”, đã ban hành trát bắt giữ đầu tiên, và năm thủ phạm đã bị bắt giam gồm những tên sau đây:

*Kaing Guek Eav, Alias Duch, cựu trưởng trại tù S-21, bị kết tội ác chống nhân loại.
*Nuon Chea, cựu chủ tịch quốc hội, bị kết tội ác chống nhân loại và tội ác chiến tranh.
*Ieng Sary, cựu bộ trưởng ngoại giao, bị kết tội ác chống nhân loại và tội ác chiến tranh.
*Ieng Thirith, cựu bộ trưởng xã hội, bị kết tội ác chống nhân loại.
*Khiêu Samphan, cựu thủ tướng, bị kết tội ác chống nhân loại và tội ác chiến tranh.

Phiên toà đầu tiên xử thủ phạm Kaing Guek Eav, Alias Duch đã mở ra ngày 17-2-2009, và phiên toà ngày 26-7-2010 đã kết án tên tội phạm này 35 năm tù. Tên tội phạm kế tiếp sẽ bị mang ra xử là Nuon Chea.

Khi thành lập Toà Án Đặc Biệt Căm Bốt để xét xử những tên tội phạm Khờ Me Đỏ, Chính Phủ Căm Bốt và LHQ đã chọn phương pháp hoà giải dân tộc dựa trên khái niệm Công Lý. Công lý là một thành tố không thể thiếu trong tiến trình hoà giải dân tộc. Công lý cần thiết để phục hồi những liên hệ hoà bình và bình thường giữa những người đã phải sống dưới chế độ khủng bố cộng sản. Công lý phá bỏ chu kỳ bạo lực, sự thù hận và sự trả thù vô luật pháp. Sau hết, công lý còn cần thiết để phục hồi danh dự cho những nạn nhân còn sống sót và gia đình của những nạn nhân đã chết. Tóm lại, Công Lý là cách đối xử nhân bản, công bằng và văn minh nhất.

Song song với nhiệm vụ của Toà Án Đặc Biệt Căm Bốt là mang những kẻ phạm tội ra trước công lý và mang công lý tới cho hàng triệu nạn nhân của chế độ cộng sản Khờ Me Đỏ, còn có một tổ chức xã hội dân sự đảm nhiệm vai trò như một Uỷ Ban Sự Thật; đó là Trung Tâm Tài Liệu về Cam Bốt có tên Anh Ngữ là “Documentation Center of Cambodia”, viết tắt là “DC-Cam”. Trung tâm này - có một lịch sử hình thành rất đáng chú ý - ra đời 11 năm trước để chuẩn bị cho việc thành lập Toà Án Đặc Biệt Căm Bốt sau này.

Tháng 4/1994, Quốc Hội Hoa kỳ thông qua Đạo Luật Công Lý về Tội Ác Diệt Chủng tại Căm Bốt, “Cambodian Genocide Justice Act”. Đạo luật này cho phép - vào tháng 7/1994 - Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ thành lập Phòng Điều Tra Tội Ác Diệt Chủng tại Căm Bốt, “Office of Cambodian Genocide Investigations”. Phòng này có nhiệm vụ điều tra những tội ác tàn bạo của Khờ Me Đỏ trong thời gian từ 1975 đến 1979.

Tháng 1/1995, Phòng Điều Tra Tội Ác Diệt Chủng tại Căm Bốt đã tài trợ cho Đại Học Yale để thực hiện Chương Trình về Nạn Diệt Chủng tại Căm Bốt, “Cambodian Genocide Program”, viết tắt là “CGP”, nhằm tìm kiếm, huấn luyện và thu thập tài liệu về chế độ Khờ Me Đỏ. Công việc của CGP là tìm kiếm chứng cứ để xác định xem các lãnh tụ Khờ Me Đỏ có phạm các tội ác chống nhân loại, tội ác chiến tranh và tội ác diệt chủng hay không? CGP là một chương trình hàn lâm có ba mục tiêu: 1) soạn thảo một tài liệu nghiên cứu và thư mục, “to prepare a documentation survey and index”; 2) nghiên cứu và biên soạn lịch sử, “to undertake historiographical research”; 3) cung cấp huấn luyện về pháp lý, “to provide legal training”.

Để theo đưổi ba mục tiêu nói trên, tháng 1/1995, CGP thành lập DC-Cam như một văn phòng tiền phương tại Phnom Penh. Văn phòng này được đặt dưới quyền một viên chức phụ trách về chương trình, Ông Youk Chhang, một người sống sót trong Cánh Đồng Giết Người của Khờ Me Đỏ. Kể từ ngày 1-1-1977, DC-Cam trở thành viện nghiên cứu độc lập về Căm Bốt, và là một tổ chức bất vụ lợi không phụ thuộc chính phủ hoặc bất cứ một tổ chức chính trị nào. DC-Cam nhận tài trợ rộng rãi từ các nguồn tài chánh quốc tế gồm những tổ chức tư nhân và các chính phủ như Hoa Kỳ (USAID), Swedish, Dutch…

Ban tham mưu của DC-Cam gồm toàn những người Căm Bốt, trong số này có nhiều người tốt nghiệp đại học tại Mỹ và Âu Châu. DC-Cam có một Hội Đồng Giám Đốc gồm 10 chuyên viên thượng thặng người Căm Bốt và một Hội Đồng Cố Vấn gồm 15 chuyên viên ngoại hạng về Căm Bốt. DC-Cam còn được sự trợ giúp của các học giả và chuyên viên tại Hoa Kỳ, Âu Châu và Á Châu về nhiều bộ môn như luật pháp, công pháp quốc tế….DC-Cam là nguồn cung cấp thông tin và tài liệu lớn nhất thế giới cho các học giả, các luật gia, các nhà hoạt động và công chúng về lịch sử của thảm hoạ nhân loại do Đảng Cộng Sản Căm Bốt gây ra.

DC-Cam có hai mục tiêu chính. Mục tiêu thứ nhất là thu thập và lưu trữ những tài liệu lịch sử về
chế độ Khờ Me Đỏ để cho các thế hệ tương lai hiểu rõ giai đoạn lịch sử bi thảm này. Mục tiêu thứ hai là ghi chép, tổ chức, sắp xếp, những thông tin và dữ kiện thành những chứng cứ pháp lý để chứng minh những tội ác của Khờ Me Đỏ. Hai mục tiêu trên đây cổ vũ cho sự Tưởng Nhớ và Công Lý. Đây là hai khái niệm căn bản đặt nền móng cho một nền pháp trị và sự hoà giải dân tộc chân thực cho Căm Bốt.

Để hoàn thành mục tiêu thứ nhất, DC-Cam đã sưu tầm và phân loại được 155,000 trang tài liệu gốc về Khờ Me Đỏ và hơn 6,000 bức ảnh. Hiện còn 400,000 trang tài liệu chờ phân loại. Năm 2009, DC-Cam đã biên soạn và phát hành quyển sách giáo khoa mang tên “Lịch Sử Kampuchea Dân Chủ” nói về lịch sử và tội ác của Đảng Cộng Sản Căm Bốt. Tính tới nay đã có 300,000 cuốn sách giáo khoa nói trên được phân phát tới tay học sinh, và dự trù đến cuối năm 2010 sẽ phát hành thêm 700,000 cuốn nữa. DC-Cam đã đề nghị và được Bộ Giáo Dục chấp thuận trong niên học sắp tới sẽ cho treo hai biểu ngữ có tính giáo dục tại 1,700 trường trung học trong toàn quốc. Nội dung của hai biểu ngữ đó như sau: “Hãy Nói Về Nỗi Chịu Đựng Đã Trải Qua Trong Suốt Thời Kỳ Cộng Sản Để Khuyến Khích Sự Hoà Giải Và Giáo Dục Thế Hệ Trẻ Về Lòng Độ Lượng Và Khoan Dung” và “Hãy Học Hỏi Về Lịch Sử Của Kampuchea Dân Chủ Để Ngăn Ngừa Nạn Diệt Chủng”. Hai tấm biểu ngữ này có kích thước ngoại khổ. Tấm biểu ngữ trước có kích thước 2m chiều ngang và 4m chiều dài; tấm biểu ngữ sau có kích thước bằng một nửa. Ngoài ra, môn học về tội ác diệt chủng của Khờ Me Đỏ cũng đã được chấp thuận đưa vào chương trình giáo dục bậc trung học.

Để hoàn thành mục tiêu thứ hai, DC-Cam đã cố gắng thu thập những chứng cứ như thư tịch, tiểu sử, hình ảnh, địa điểm và những sự kiện lên quan đến tội ác của Khờ Me Đỏ. DC-Cam đã xác định được địa điểm và toạ độ của 189 trại giam, 19,403 mồ chôn tập thể và 80 địa điểm diệt chủng. DC-Cam đóng góp rất nhiều trong việc giữ gìn Viện Bảo Tàng Diệt Chủng Tuol Sleng và khu di tích Cánh Đồng Giết Người Choeung Ek. DC-Cam đã đề nghị chính phủ bảo vệ và tu bổ những địa đìểm gây tội ác của Khờ Me Đỏ để trở thành những di tích lịch sử để tưởng niệm các nạn nhân. Những dữ kiện trên đây đã cung cấp những tài liệu giá trị cho các học giả, các nhà điều tra, các sử gia để tìm hiểu chính xác lịch sử tội ác của Đảng Cộng Sản Cam Bốt. DC-Cam cũng cung cấp những chứng cứ pháp lý cho Toà Án Đặc Biệt Căm Bốt.

Với sáng kiến và sự giúp đỡ của Chính Phủ Hoa Kỳ và Đại Học Yale, DC-Cam đã được thành lập để trở thành một viện nghiên cứu độc lập góp phần vào công việc hoà giải dân tộc tại Cam Bốt. Phương pháp hoà giải dân tộc của Cam Bốt dựa trên ba khái niệm: Công Lý, Sự Thật và Tưởng Nhớ. Sau đây xin tóm tắt ý nghĩa của ba khái niệm nói trên trong hoà giải dân tộc:

a) Khái niệm Công Lý trong hoà giải dân tộc – Mang bọn tội phạm cộng sản ra trước công lý là một thể hiện công bằng, trong sáng và minh bạch đối với những kẻ phạm tội cũng như đối với những nạn nhân của chúng. Công lý tạo được niềm tin tưởng của người dân về luật pháp quốc gia là để bảo vệ an ninh và hoà bình cho xã hội vốn đã bị cộng sản sử dụng như một công cụ khủng bố để đàn áp người dân. Công lý đặt nền móng cho cho một thể chế pháp trị rất cần thiết cho sự hoà giải chân thực để đoàn kết dân tộc, hướng tới tương lai.

b) Khái niệm Sự Thật trong hoà giải dân tộc - Một sự hoà giải chân chính đòi hỏi sự thật phải được trình bày một cách trung thực để:

Nạn nhân có quyền biết sự thật về những tội ác đã gây thống khổ cho họ. Sự thật cũng cần thiết để trả lại danh dự và bạch hoá những tội trạng mà chế độ cộng sản đã vu cáo chống lại họ.
Giúp thân nhân của các nạn nhân đã bị giết, bị thủ tiêu tìm hiểu những gì đã xẩy ra cho những người thân của họ và tìm được những di tích còn sót lại của những người này.
Giúp cho xã hội biết được nguồn gốc và nguyên nhân gây ra tội ác để tránh tái diễn.

c) Khái niệm Tưởng Nhớ trong hoà giải dân tộc – Một dân tộc không có ký ức để nhớ về quá khứ hoặc quên quá khứ, dân tộc đó sẽ vong thân và mất phương hướng. Tưởng nhớ hay tưởng niệm những nạn nhân đã hy sinh trong một biến cố lịch sử chính là để gây niềm thông cảm và tạo tình đoàn kết dân tộc để chống cái ác tái diễn. Tưởng nhớ những thảm hoạ cay đắng trong một giai đoạn lịch sử là để tạo niềm tin hướng tới một tương lai tốt đẹp hơn chứ không phải ôm lấy quá khứ để sống một cuộc sống nghèo nàn về tinh thần và tình cảm. Tưởng nhớ chính là để nhìn rõ Sự Thật, góp phần vào công cuộc hoà giải dân tộc chứ không phải khơi lại hận thù như Việt Cộng và tay sai hô hoán. Khi xây dựng những Đài Tưởng Niệm Thuyền Nhân Việt Nam trên khắp thế giới, người Việt hải ngoại đã chuẩn bị cho công cuộc hoà giải dân tộc dựa trên hai khái niệm Tưởng Nhớ và Sự Thật

Hoà giải dân tộc dựa trên ba khái niệm Công Lý, Sự Thật và Tưởng Nhớ là kinh nghiệm của hơn 30 quốc gia kể từ sau khi chấm dứt thế chiến 2. Đây là ba khái niệm mà Việt Cộng rất sợ. Chính vì sợ Sự Thật và Tưởng Nhớ mà chúng đang chống phá và tìm mọi cách để phá hoại những Đài Tưởng Niệm Thuyền Nhân Việt Nam trên khắp thế giới. Do đó, đừng bao giờ kêu gọi, gửi kiến nghị hoặc viết thư cho Việt Cộng yêu cầu chúng đứng ra hoà giải dân tộc. Chúng không có khả năng và tư cách để làm việc này. Chúng chỉ tuyên truyền, nói láo và lừa gạt.

Kết Luận

Thảm hoạ mà Đảng Cộng Sản Căm Bốt gây ra cho dân tộc Căm Bốt mang tính nhân loại. Do đó, cộng đồng thế giới đã giúp đỡ về pháp lý và tài chánh để hàn gắn vết thương và hoà giải dân tộc để chuyển tiếp từ chế độ độc tài cộng sản sang chế độ dân chủ pháp trị. Phương pháp hoà giải dân tộc của Căm Bốt đang diễn tiến có triển vọng tốt đẹp. Người Việt cần theo rõi, nghiên cứu để áp dụng vào Việt Nam sau này, bởi vì những tội ác mà Đảng Cộng Sản Căm Bốt gây ra cho dân tộc Căm Bốt cũng chính là những tội ác mà Đảng Cộng Sản Việt Nam đã phạm đối với dân tộc Việt Nam. Những tội ác này có cùng một nguồn gốc là các thứ Leninism, Stalinism và Maoism.

Như đã trình bày ở trên, băng đảng tội phạm Việt Cộng - mà bản chất của chúng là đấu tranh tiêu diệt giai cấp một cách sắt máu - không có tư cách và cũng không có khả năng để hoà giải dân tộc. Đây là sự thật, và thực tế 35 năm nay đã chứng minh điều này. Toàn dân Việt Nam - với truyền thống văn hoá nhân bản - sẽ thực hiện được hoà giải dân tộc sau khi thanh toán xong chế độ cộng sản. Ngay từ bây giờ, các học giả, các nhà trí thức, các nhà nghiên cứu, các sử gia, các luật gia, các nhà hoạt động, các chính trị gia người Việt trên khắp thế giới nên thành lập một tổ chức xã hội dân sự như DC-Cam của Căm Bốt để chuẩn bị cho công cuộc hoà giải dân tộc - một công cuộc quy mô có tầm vóc lịch sử - sau khi thanh toán được chế độ Việt Cộng.

Người Cuba cũng đã chuẩn bị cho một tiến trình hoà giải dân tộc trong tương lai 5, 10… năm nữa khi chế độ cộng sản Cuba sụp đổ. Tiến trình này do hai tác giả Armando M. Largo và Marria C. Verlau soạn thảo có tựa đề: Đối Phó với Quá Khứ: Vai Trò của Sự Thật trong Hoà Giải Dân Tộc, “Dealing with the Past: The Role of Truth in National Reconciliation”. Ngoài ra, người Cuba cũng đã được Ford Foundation và Open Society Institute tài trợ để thành lập một tổ chức có tên: Hoà Giải Dân Tộc Cuba: Lực Lượng Đặc Nhiệm về Tưởng Nhớ, Sự Thật và Công Lý, “Cuban National Reconciliation: Task Force on Memory, Truth and Justice”. Tổ chúc này - gồm hơn 20 nhà trí thức, học giả, giáo sư và các nhà hoạt động - có mục tiêu là nghiên cứu một phương thức hoà giải dân tộc dựa trên ba khái niệm Công Lý, Sự Thật và Tưởng Nhớ để chuyển tiếp từ chế độ độc tài cộng sản Cuba sang một thể chế dân chủ pháp trị. Đây là sự chuẩn bị trước cho một sự kiện lịch sử chắc chắn sẽ diễn ra: Sự tiêu vong của chế độ cộng sản Cuba. Người Việt quốc gia tại hải ngoại cũng nên nghiên cứu, soạn thảo ngay từ bây giờ một tiến trình hoà giải dân tộc dựa trên ba khái niệm: Công Lý, Sự Thật và Tưởng Nhớ. Sớm hay muộn, chắc chắn chế độ độc tài toàn trị Việt Cộng sẽ bị tiêu diệt.

Hồ Chí Minh và băng đảng Việt Cộng đã tàn ác với chính đồng bào của chúng. Hơn ba triệu người Việt đã phải liều chết vượt biển ra đi, sống tha hương trên gần một trăm quốc gia và vùng lãnh thổ khắp thế giới. Những mất mát vật chất có thể bù đắp lại được, nhưng phải cắt lìa khỏi quê hướng để đi sống tha hương không biết ngày về là những mất mát thuộc về tinh thần và tình cảm không thể bù đắp được. Ngày hôm nay, hơn ba triệu người Việt đang sống tha hương trên khắp thế giới chỉ có một ước vọng duy nhất là trở về xây dựng lại quê hương đã bị băng đảng Việt Cộng làm đổ vỡ tan hoang. Điều này chứng tỏ rằng trong tiềm thức họ đã ấp ủ một tinh thần hoà giải dân tộc. Hoà giải để đoàn kết dân tộc là một nhu cầu lịch sử cấp thiết có tính sinh tử như đã trình bày từ đầu của bài viết này. Tuy nhiên, để có thể hoà giải dân tộc, trước hết phải thanh toán cái băng đảng tội ác Việt Cộng bởi vì chúng là chướng ngại vật trên con đường hoà giải dân tộc Đó là logic của lịch sử.

Đỗ Ngọc Uyển

(Khoá 4 Thủ Đức/ Binh Chủng T.T)
Morgan Hill, California
Tháng 8 năm 2010

Tài liệu tham khảo:
-http://www.euranet.en/eng/Archive/News/English/2010/May/Medvedev-slams-murky- Soviet-past - Medvedev slams murky Soviet past
-http://vietland.net/main/showtheread.php?t=13793 - Thần Tượng Sụp Đổ - Giao Tiên
-http://www.fas.org/irp/world/rsa/act95-034.htm -Promotion of National Unity and Reconciliation Act
-http://.ecc.gov.kh/ - Extraordinary Chambers in the Courts of Cambodia
-http://www.dccam.org/Abouts/History/Histories.htm – History and Description of DC-Cam
-http://.www.viet.rfi.fr – Phong trào giáo dục nhận thức về tội ác Khmer Đỏ được đẩy mạnh
-http://www.ictj.org/en/news/coverage/article/2981.html - The Path to Reconciliation in Cambodia
-http://www.icltd.org/reconcile.htm - Model of National Reconciliation: A Summary
-http://www.amnesty.org/en/internatio...th-commissions - Amnesty International – Truth Commissions
-http://jim.com/repression.htm#ref4 – Repression in the Socialist Republic of Vietnam: Execution and population relocation by Jacqueline Desbarats
-http:www,victimsofcommunism.org/history_communism.php – The victims of Communism Memorial Foundation
-http://www.yale.edu/seas/bibliograph...ers/chap9.html – Vietnamese Perspectives on the War in Vietnam – IX. Accounts of Imprisonment and Reeducation
-http://untreaty.un.org/cod/icc/statute/romefra.htm – Rome Statute of the International Criminal Court
-http://dartcenter.org/content/camp-z30-d-survivors – Camp Z30-D: The Survivors
-http://memoria.fiu.edu/ - Cuban National Reconciliation: Task Force on Memory, Truth and Justice

(Ông Đỗ Ngọc Uyển là một Sĩ Quan Cấp Tá, thuộc Binh Chủng Truyền Tin của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa) .

Hết trích

______________

Xin cám ơn bài viết của ông Đỗ Ngọc Uyển .
conbenho hòan toàn ủng hộ lập trường của tác giả trong vấn đề "Hòa Giải Dân Tộc" đã được nêu rõ trong trong bài viết, đặc biệt trong phần kết luận .

"Hồ Chí Minh và băng đảng Việt Cộng đã tàn ác với chính đồng bào của chúng. Hơn ba triệu người Việt đã phải liều chết vượt biển ra đi, sống tha hương trên gần một trăm quốc gia và vùng lãnh thổ khắp thế giới. Những mất mát vật chất có thể bù đắp lại được, nhưng phải cắt lìa khỏi quê hướng để đi sống tha hương không biết ngày về là những mất mát thuộc về tinh thần và tình cảm không thể bù đắp được. Ngày hôm nay, hơn ba triệu người Việt đang sống tha hương trên khắp thế giới chỉ có một ước vọng duy nhất là trở về xây dựng lại quê hương đã bị băng đảng Việt Cộng làm đổ vỡ tan hoang. Điều này chứng tỏ rằng trong tiềm thức họ đã ấp ủ một tinh thần hoà giải dân tộc. Hoà giải để đoàn kết dân tộc là một nhu cầu lịch sử cấp thiết có tính sinh tử như đã trình bày từ đầu của bài viết này.
Tuy nhiên, để có thể hoà giải dân tộc, trước hết phải thanh toán cái băng đảng tội ác Việt Cộng bởi vì chúng là chướng ngại vật trên con đường hoà giải dân tộc Đó là logic của lịch sử."

Đây cũng là ý kiến của một người dân VN không chấp nhận bè lũ chó má cướp nước, diệt chủng, phản quốc , bán nước là tập đòan TỘI ÁC csVN còn tồn tại trên những chiếc ghế quyền lực, tiếp tục sắt máu cai trị người dân VN và làm nhục dân tộc VN .

Đây cũng là ý kiến của một người dân VN đối với những ai đã và đang mưu đồ đê tiện hòa giải hòa hợp với tập đòan chó má csVN, tự nguyện làm tay sai, đầy tớ, rửa TỘI ÁC của tập đòan chó má csVN .

Và đây cũng là câu trả lời cho câu hỏi của những ai đã và đang mang nhãn hiệu"đấu tranh" cho tự do dân chủ nhân quyền mà còn đặt vấn đề "chúng ta lấy quyền gì để tiêu diệt csVN ?", hay " bạn có quyền gì để lật đổ csVN?" Xin thưa Quyền của những người công dân nước Việt . Quyền của cả dân tộc Việt xử tội bè lũ chó má BÁN NƯỚC BUÔN DÂN .

Những "chính khách" mở miệng ra hỏi những câu như vậy chỉ là những "chính khách nô", không tin vào lực của toàn dân, đầu óc nhiễm vi khuẩn vọng ngọai, những kẻ chỉ "đấu tranh" cho bản thân và băng đảng của họ, sẵn sàng làm tay sai, đầy tớ cho tập đòan csVN nếu được chúng bố thí ân sủng . Những thành phần này hầu như không bao giờ dám lên tiếng về TỘI ÁC vô tiền khóang hậu của tập đòan chó má csVN đã và đang nô lệ dân tộc VN và BÁN NƯỚC .

Nên nhớ rằng, TỘI ÁC cướp nước, diệt chủng , phản quốc , bán nước của tập đòan chó má csVN dù chúng có bị treo cổ hay phanh thây cũng chưa đền hết TỘI ÁC của chúng đã gây ra cho dân tộc VN, trong đó bao gồm những TỘI ÁC đã được nêu ra trong bài viết trên .

Sẽ không bao giờ có Tự Do, Dân Chủ và Quyền Làm Người đúng nghĩa cho đại khối dân Việt bị trị khi tập đoàn súc sinh csVN, là biểu tượng của TỘI ÁC, của tất cả những sự tàn bạo, dã man, nham hiểm, độc ác, vô luân, bẩn thỉu, đê tiện .. nhất trên thế giới này còn tồn tại trên những chiếc ghế quyền lực, để tiếp tục hủy diệt nòi giống Việt và bán nước Việt .

Vì vậy "hòa giải hòa hợp" để "chia quyền" với lũ súc sinh csVN là tự nguyện làm tay sai, đầy tớ cho chúng, là bao che cho TỘI ÁC của chúng, dù dưới hình thức nào cũng là đồng lõa với chúng .


Chân thành cám ơn Quý Anh Chị ghé thăm "conbenho Nguyễn Hoài Trang Blog"
Xin được lắng nghe ý kiến chia sẻ của Quý Anh Chị trực tiếp tại Diễn Đàn Paltalk: 1Latdo Tapdoan Vietgian CSVN Phanquoc Bannuoc .
Kính chúc Sức Khỏe Quý Anh Chị .



conbenho
Tiểu Muội quantu
Nguyễn Hoài Trang
01092010
_______________
Cộng sản không thể thay đổi mà phải dẹp bỏ (B. Yeltsin) .
Đừng nghe những gì cộng sản nói, hãy nhìn kỹ những gì cộng sản làm ( Cố Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu) .

Sunday, August 29, 2010

"Nhân quyền" dưới chế độ xuống hàng chó ngựa của tập đoàn chó má cộng sản Việt Nam

Trích

Đặc tả nhân quyền theo kiểu Việt Nam (phần 1)
Trân Văn, thông tín viên RFA
2010-08-07

Nhiều quốc gia, tổ chức phi chính phủ vẫn liên tục thúc giục chính quyền Việt Nam hãy tôn trọng các quyền cơ bản của con người, trả tự do cho những tù nhân bị giam giữ vì bày tỏ sự khác biệt về quan điểm chính trị hoặc vì hoạt động tôn giáo, không can thiệp vào hoạt động tôn giáo,…


RFA photo/Quỳnh Như

Dân biểu Joseph Cao của tiểu bang Louisiana (đứng giữa) tại buổi họp báo trước trụ sở Quốc Hội Hoa Kỳ lên tiếng về tình trạng nhân quyền tại VN hôm 22/7/2010



Còn Việt Nam vẫn liên tục nhắc đi, nhắc lại rằng, không thể biến quan điểm của quốc gia nào đó về nhân quyền thành tiêu chuẩn, rồi áp đặt tiêu chuẩn đó cho Việt Nam, vì mỗi quốc gia đều có bản sắc văn hóa riêng, có luật pháp riêng...

Vậy Việt Nam đang thực thi các cam kết với cộng đồng quốc tế về quyền con người như thế nào? Mời quý vị nghe Trân Văn tổng hợp và tường trình bài đầu tiên trong loạt bài “Đặc tả nhân quyền theo kiểu Việt Nam”…

Chính quyền bảo không
Trên bình diện quốc tế, có rất nhiều văn kiện liên quan đến nhân quyền, ràng buộc tất cả các quốc gia thành viên của Liên Hiệp Quốc.

“Theo chính quyền Việt Nam, tại Việt Nam không có tù chính trị mà chỉ có những người vi phạm luật hình sự.

Ngoài việc xác định mọi cá nhân đều có quyền được sống, được bình đẳng trước pháp luật và được pháp luật bảo vệ, được tự do về tư tưởng, tín ngưỡng và tôn giáo, được tự do ngôn luận, được tự do hội họp,… các văn kiện quốc tế về nhân quyền còn khẳng định, những hành vi xâm phạm nhân quyền là tội ác chống lại các giá trị phổ quát của nhân loại. Tùy tính chất và mức độ, những kẻ phạm tội có thể trở thành đối tượng của “Nghị quyết về các nguyên tắc hợp tác quốc tế trong lĩnh vực truy tìm, bắt giữ, dẫn độ và trừng phạt các cá nhân phạm tội ác chiến tranh và tội ác chống loài người”, “Quy chế Tòa hình sự quốc tế”.

Đây là một trong những lý do khiến chính quyền Việt Nam thường xuyên phủ nhận cáo buộc của nhiều thành viên trong cộng đồng quốc tế, về việc đàn áp các cá nhân bất đồng về chính kiến và bác bỏ những lời kêu gọi hãy trả tự do cho tù chính trị. Theo chính quyền Việt Nam, tại Việt Nam không có tù chính trị mà chỉ có những người vi phạm luật hình sự.


Phạm nhân trại giam Xuân Lộc đang lao động ngoài trại. Photo courtesy of VietnamNet Có đúng là các nhà tù tại Việt Nam không hề có tù chính trị? Những người từng bị kết án, bị giam giữ vì lý do chính trị nghĩ gì trước những tuyên bố của chính quyền Việt Nam? Chúng tôi đã trao đổi với ba người từng bị giam tại trại giam Z30A, tọa lạc tại huyện Xuân Lộc, tỉnh Đồng Nai. Đó là các ông: Nguyễn Hữu Phu, bị bắt năm 1990, bị kết án 10 năm tù về tội “Hoạt động nhằm lật đổ chính quyền nhân dân”, được trả tự do năm 2009, nay đang cư trú tại Thừa Thiên – Huế. Nguyễn Bắc Truyễn, bị bắt năm 2006, bị kết án 42 tháng tù về tội “tuyên truyền chống nhà nước CHXHCN Việt Nam”, được trả tự do vào giữa tháng 5 vừa qua, đang cư trú tại TP.HCM. Ông Nguyễn Ngọc Quang, bị bắt năm 2006, bị kết án ba năm tù về tội “Tuyên truyền chống nhà nước CHXHCN Việt Nam”, được trả tự do năm 2009, đang cư trú tại TP.HCM để tìm câu trả lời.

Còn trong tù thì…
Mời quý vị nghe một phần cuộc trao đổi giữa chúng tôi với ông Nguyễn Hữu Phu…

Trân Văn: Việt Nam thường bảo rằng, tại Việt Nam không có tù chính trị cho nên tôi muốn hỏi anh cho rõ ràng, đó là, ở trong trại giam thì các anh được gọi là gì?

Nguyễn Hữu Phu: Chúng tôi được gọi là tù chính trị.

Trân Văn: Các anh được gọi là tù chính trị là do quản giáo gọi, hay các anh tự nhận, hoặc là những người bạn tù khác gọi các anh?

Nguyễn Hữu Phu: Thứ nhất là quản giáo gọi. Bình thường họ vẫn gọi là tù chính trị nhưng mà khi họp hành thì họ gọi chúng tôi là người vi phạm an ninh quốc gia.

“Thứ nhất là quản giáo gọi. Bình thường họ vẫn gọi là tù chính trị nhưng mà khi họp hành thì họ gọi chúng tôi là người vi phạm an ninh quốc gia.

Ông Nguyễn Hữu Phu

Trân Văn: Như vậy là các anh có tên gọi riêng?

Nguyễn Hữu Phu: Vâng!

Trân Văn: Còn tù hình sự thì họ gọi là gì?

Nguyễn Hữu Phu: Vẫn gọi là tù hình sự thôi anh.

Trân Văn: Họ có chia nhóm giữa tù hình sự với tù chính trị không?

Nguyễn Hữu Phu: Họ vẫn chia nhóm, họ tách riêng. Đời nào họ cho chúng tôi gần được tù hình sự.

Trân Văn: Như vậy là với bên ngoài, Việt Nam phủ nhận việc có tù chính trị nhưng trong trại giam thì lãnh đạo trại giam và các quản giáo vẫn gọi các anh một cách rõ ràng là tù chính trị?

Nguyễn Hữu Phu: Vâng, là tù chính trị. Có sự tách biệt. Nhà giam chúng tôi là nhà giam tách biệt và khu giam đó như một khu cách ly.


Ông Nguyễn Hữu Phu. Photo courtesy of thongtinberlin. Để phối kiểm các thông tin do ông Nguyễn Hữu Phu cung cấp, chúng tôi cũng đã nêu những câu hỏi tương tự với ông Nguyễn Bắc Truyển…

Trân Văn: Thưa anh Truyển, Việt Nam vẫn tuyên bố, tại Việt Nam không có tù chính trị, chỉ có những người vi phạm luật hình sự bị phạt tù. Thế thì tại sao anh gọi những người bạn cùng ở tù với anh là tù chính trị?

Trong nhà tù có sự phân loại và có sự khác biệt nào về cách đối xử giữa những người như các anh với tù thường phạm không? Chẳng hạn quản giáo gọi các anh là gì? Tù thường phạm gọi các anh là gì?

Nguyễn Bắc Truyển: Chúng ta cũng hay thấy là nhà nước CSVN thường tuyên bố rằng không có sự đối lập, không có tù chính trị. Mọi người đều đứng dưới lá cờ của Đảng Cộng sản. Tôi xin được nói đó là sự bịp bợm, dối trá và ngụy biện.

Họ đã quy chụp cho những người bất đồng chính kiến, hoạt động chính trị và tôn giáo là những người phạm tội hình sự. Rồi họ đem tất cả những người đó ra xử bằng bộ luật hình sự. Hành động đó làm cho bản thân họ trở thành thấp kém khi nói chuyện với cộng đồng quốc tế.

Tôi không phải là nhà lý luận để có thể đi sâu vào ngôn từ, chữ nghĩa nhưng trong trại giam thì chính những người cảnh sát trại giam vẫn gọi chúng tôi là tù chính trị, “các anh bị giam trong khu chính trị”. Tất cả các vật dụng, nồi cơm, bình đựng nước uống, vân vân,… đều được đánh dấu bằng chữ “C.T” – có nghĩa là chính trị. Như vậy hóa ra những người cảnh sát trại giam còn hiểu biết hơn các vị “đỉnh cao trí tuệ”, khi họ còn phân biệt được đâu là hoạt động chính trị, đâu là phạm tội hình sự.

“... trong trại giam thì chính những người cảnh sát trại giam vẫn gọi chúng tôi là tù chính trị, “các anh bị giam trong khu chính trị”. Tất cả các vật dụng, nồi cơm, bình đựng nước uống, vân vân,… đều được đánh dấu bằng chữ “C.T” – có nghĩa là chính trị.


Ông Nguyễn Bắc Truyển
Còn những người tù thường phạm thì họ hiểu rõ và họ luôn luôn gọi chúng tôi là tù chính trị hoặc là tù tôn giáo. Họ có một sự kính trọng đặc biệt đối với chúng tôi.

Những người cán bộ trại giam thì dè dặt hơn. Có khi họ gọi chúng tôi là những người bất đồng chính kiến, tù an ninh quốc gia.

Còn cách giam giữ thì anh thấy là hoàn toàn khác với tù thường phạm. Chúng tôi bị giam trong một khu riêng biệt. Đi lao động thì xuất trại cuối cùng nhưng khi về nhập trại thì ưu tiên số một. Có nghĩa là khi chúng tôi về thì có rất nhiều người tù thường phạm đứng chờ nhập trại nhưng chúng tôi được ưu tiên vào trước. Chúng tôi cũng không phải sinh hoạt tập thể chung với tù thường phạm vào sáng thứ hai hàng tuần, cũng không phải chào cờ. Chúng tôi không được đi mua hàng trên canteen mà có người xuống ghi đăng ký ở tại buồng giam, sau đó họ đem xuống tận buồng giam giao cho chúng tôi. Đặc biệt là khi gia đình chúng tôi đi thăm thì chúng tôi có khu vực giam riêng và luôn luôn người dẫn chúng tôi đi thăm gặp là an ninh của trại giam.

Anh em thường phạm nào mà tiếp xúc với chúng tôi, nhẹ thì bị cảnh cáo, còn nặng thì kỷ luật cùm chân hoặc là chuyển trại. Trong khi đó thì anh em tù thường phạm tiếp xúc với nhau rất là thoải mái.


Từ phải qua: ông Nguyễn Anh Hảo, cô Nguyễn Thu Trâm, ông Nguyễn Bắc Truyển và ông Nguyễn Ngọc Quang. Hình do RFA thính giả gởi. Cùng trao đổi về vấn đề này, ông Nguyễn Ngọc Quang nhận định: “Nhà nước Việt Nam tuyên bố rằng ở Việt Nam không có tù chính trị nhưng lại kết tội người ta về hành vi chính trị. Họ nói lấy được thôi, câu nói, Việt Nam hoàn toàn không có tù nhân chính trị chỉ nói với thế giới bên ngoài. Còn ngay ở bên ngoài, chính giám thị nói thẳng, các anh là tù nhân chính trị.”

Trân Văn: Ngay trong trại giam thì có sự phân định giữa tù chính trị và tù hình sự không? Sự phân định đó thể hiện như thế nào? Nó thể hiện trong cách gọi của giám thị trại giam, trong cách gọi của các tù nhân hay là nó thể hiện trong việc phân loại và việc giam giữ cũng như là cách đối xử?

Nguyễn Ngọc Quang: Nó thể hiện ở ba điểm. Thứ nhất là cách gọi của cán bộ trại giam. Cán bộ trại giam gọi chúng tôi là tù chính trị và gọi những người kia là tù thường phạm.

“Thứ nhất là cách gọi của cán bộ trại giam. Cán bộ trại giam gọi chúng tôi là tù chính trị và gọi những người kia là tù thường phạm.


Ông Nguyễn Ngọc QuangThứ hai, phân biệt bằng đối xử bởi vì chúng tôi bị giam chung chứ không giam riêng với những người tù thường phạm. Chúng tôi không được quyền học, không được quyền có giấy bút, không được quyền gọi điện thoại ra ngoài mỗi tháng một lần như nội quy thi hành án đã quy định. Chúng tôi không được tiếp xúc với người khác, trừ trường hợp lao động. Lao động thì chúng tôi phải lao động tập trung. Có nghĩa là tù chính trị lao động riêng với nhóm tù chính trị và không được gần gũi với những người tù thường phạm.

Người tù thường phạm nào gần gũi với chúng tôi thì chắc chắn sẽ bị đi cùm.

Điểm thứ ba để phân định là mỗi lần viết kiểm điểm, chúng tôi buộc phải nhận đã có hành vi chống nhà nước này. Hành vi chống nhà nước chính là hành vi chính trị.

Đến đây thì cuộc trò chuyện với những cá nhân từng bị tù do bày tỏ sự bất đồng về quan điểm chính trị, lên tiếng kêu gọi và vận động thay đổi thể chế chính trị tại Việt Nam theo chiều hướng tôn trọng tự do, dân chủ, chuyển sang một hướng khác. Đó là khi phải đối diện với tình trạng mất tự do và môi trường khắc nghiệt của nhà tù, tù chính trị nghĩ gì và ứng xử ra sao? Mời quý vị đón nghe bài kế tiếp.

***

Đặc tả nhân quyền theo kiểu Việt Nam (phần 2)
Trân Văn, thông tín viên RFA
2010-08-08

Tuy Việt Nam luôn phủ nhận tại Việt Nam có tù chính trị, song trong lần phát thanh trước, quý vị đã nghe các ông: Nguyễn Hữu Phu, Nguyễn Bắc Truyển, Nguyễn Ngọc Quang – những người từng bị kết án, bị giam giữ vì lý do chính trị, kể về sự hiện diện của tù chính trị trong nhà tù cũng như sự phân loại, sự phân biệt về cách đối xử giữa tù chính trị và tù hình sự tại trại Z30A ở Xuân Lộc, Đồng Nai.


Photo courtesy of VietNamNet

Thượng tướng Lê Thế Tiệm tại cuộc họp báo hướng dẫn tuyên truyền về đặc xá năm 2010, công bố quyết định 697/2010/QĐ-CTN của Chủ tịch nước Cộng hòa XHCN Việt Nam về đặc xá năm 2010.



Khi phải đối diện với tình trạng mất tự do và môi trường khắc nghiệt của nhà tù, tù chính trị nghĩ gì và ứng xử ra sao? Mời quý vị nghe Trân Văn tường trình tiếp.

Tội nào cũng có thể tha…
Cách nay vài tuần, hệ thống truyền thông Việt Nam loan báo, nhân dịp kỷ niệm 65 năm ngày thành lập nhà nước Cộng hòa XHCN Việt Nam, Việt Nam sẽ thực hiện một đợt đặc xá, được cho là lớn chưa từng có.

“Điểm đáng chú ý là trong đợt đặc xá được xem là lớn chưa từng có này, Việt Nam khẳng định, sẽ không đặc xá cho những người đã bị kết án về những tội nằm trong nhóm tội được gọi là “xâm phạm an ninh quốc gia” – cách Việt Nam thường dùng để gọi tù chính trị tại Việt Nam.

Theo đó, sẽ có khoảng từ 25.000 đến 30.000 phạm nhân được trả tự do trước khi mãn hạn tù, vào đầu tháng 9 sắp tới. Điểm đáng chú ý là trong đợt đặc xá được xem là lớn chưa từng có này, Việt Nam khẳng định, sẽ không đặc xá cho những người đã bị kết án về những tội nằm trong nhóm tội được gọi là “xâm phạm an ninh quốc gia” – cách Việt Nam thường dùng để gọi tù chính trị tại Việt Nam.

Vì sao Việt Nam có thể khoan hồng cho tất cả những viên chức đã từng tham nhũng, cố ý làm trái hoặc thiếu trách nhiệm gây thiệt hại nghiêm trọng cho quốc gia, những cá nhân đã từng giết người, cướp giật, cưỡng hiếp, lừa đảo chiếm đoạt tài sản, kể cả buôn bán ma túy, buôn người… nhưng lại bất khoan dung với những người bày tỏ sự bất đồng về quan điểm, vận động tự do, dân chủ hóa Việt Nam?

Chúng tôi tiếp tục cuộc trò chuyện với một số cựu tù chính trị nhằm tìm câu trả lời cho thắc mắc này. Câu trả lời chung về nguyên nhân chính dẫn tới thái độ bất khoan dung của chính quyền Việt Nam là vì tù chính trị không chịu cải tạo theo ý chính quyền Việt Nam mong muốn.

Trừ “tội” kêu đòi tự do, dân chủ

Ông Nguyễn Hữu Phu. Photo courtesy of thongtinberlin. Người cựu tù chính trị đầu tiên mà chúng tôi đề nghị giải thích chi tiết hơn về vấn đề này là ông Nguyễn Hữu Phu, bị bắt năm 1990, bị kết án 10 năm tù về tội “Hoạt động nhằm lật đổ chính quyền nhân dân”, được trả tự do năm 2009, nay đang cư trú tại Thừa Thiên – Huế.

Trân Văn: Thưa anh, có một vấn đề, đó là thông thường, khi phải vào tù thì người ta mong được trở về nhà, và để được trở về nhà thì người ta thường cố gắng tuân thủ các yêu cầu của trại giam, cố gắng chứng tỏ điều mà các trại giam cũng như chính quyền Việt Nam thường đề cập đó là cải tạo tốt. Thế thì tại sao tù chính trị lại không chịu cải tạo?

Nguyễn Hữu Phu: Xin trả lời với anh như thế này. Thứ nhất, những con người nào nhận thấy họ sai trái, họ mới được cải tạo. Còn riêng tù chính trị thì đa số họ vì lý tưởng sống cao cả cho nên buộc họ cải tạo thì họ không bao giờ chấp nhận để được giảm án.

Cải tạo là thế nào? Chúng tôi không đồng ý vì thứ nhất, việc làm của chúng tôi không sai, bây giờ làm sao chúng tôi phải chấp nhận sai và đáp ứng những yêu cầu của nhà trại để về được.

Trân Văn: Thưa anh, số tù chính trị được giảm án có nhiều không? Số tù chính trị mà được đặc xá trong các đợt đặc xá hàng năm có nhiều không?

Nguyễn Hữu Phu: Từ 2007 cho đến nay thì tù chính trị không được xét đặc xá.

Trân Văn: Không được xét đặc xá là vì họ không chịu cải tạo?

Nguyễn Hữu Phu: Vâng, không chịu cải tạo!

Ông Phu khẳng định, vì lý tưởng, đa số tù chính trị không nhận sai, không xin khoan hồng, nên vì vậy không được đặc xá. Điều đó có đúng không? Chúng tôi tiếp tục nêu lại vấn đề này với ông Nguyễn Bắc Truyển, bị bắt năm 2006, bị kết án 42 tháng tù về tội “tuyên truyền chống nhà nước CHXHCN Việt Nam”, được trả tự do vào giữa tháng 5 vừa qua, đang cư trú tại TP.HCM, để kiểm chứng.

“Từ 2007 cho đến nay thì tù chính trị không được xét đặc xá.


Ông Nguyễn Hữu Phu
Trân Văn: Thưa anh Truyển, vì sao gần như không có tù chính trị nào được đặc xá hoặc ân xá, có phải vì họ không chịu cải tạo, không xin khoan hồng không?

Có một thực tế là ai ở tù thì cũng mong được trả tự do, tại sao tù chính trị không chọn lối hành xử như mọi người tù bình thường khác?

Nguyễn Bắc Truyển: Để được giảm án tha tù hay ân xá thì người tù phải ký vào một bản gọi là cam kết nhận tội, ăn năn hối cải nhưng đối với tù chính trị thì không bao giờ họ chịu làm việc này hết. Lý tưởng của họ còn mạnh hơn sự sống, do đó, họ có thể chết cho lý tưởng của mình.

Khi dấn thân vào con đường đấu tranh thì tù chính trị chấp nhận sự tù đày rồi. Không cần phải bàn cãi về chuyện đó. Và khi chấp nhận tù đày thì có nghĩa là chấp nhận cái chết vì vào trong tù, khả năng chết và sống là 50/50. Việc này thì anh em ở trỏng chấp nhận nhẹ nhàng thanh thản thôi.

Do đó, những ai muốn dấn thân vào con đường tranh đấu cho dân chủ, tự do ở thời điểm hiện tại thì phải tự hỏi có chấp nhận sự gian khổ trong nhà tù hay không.

Tù chính trị không bao giờ ký vào bản nhận tội để được ân xá hay giảm án gì đó.


Từ trái qua: ông Trần Văn Huy, ông Nguyễn Ngọc Quang, ông Nguyễn Anh Hảo, Cô Nguyễn Thu Trâm và ông Nguyễn Bắc Truyển hôm 18/07/2010. Một cựu tù chính trị khác là ông Nguyễn Ngọc Quang, bị bắt năm 2006, bị kết án ba năm tù về tội “Tuyên truyền chống nhà nước CHXHCN Việt Nam”, được trả tự do năm 2009, đang cư trú tại TP.HCM, cũng lý giải y hệt như ông Nguyễn Hữu Phu và ông Nguyễn Bắc Truyển về việc tại sao tù chính trị không được đặc xá: “Ở trại Xuân Lộc, mỗi quý ba tháng đều phải viết bản kiểm điểm dựa trên bốn tiêu chuẩn thi đua chấp hành án. Tiêu chuẩn đầu tiên là phải thành khẩn nhận tội. Muốn được giảm án là phải nhận tội, không nhận tội là không bao giờ được giảm án.”

Đó cũng là số phận của những người bị kết án, bị giam giữ vì đòi hỏi tự do tôn giáo và trong tù, được gọi là tù tôn giáo. Ông Nguyễn Bắc Truyển kể thêm về tù tôn giáo và số lượng tù chính trị, tù tôn giáo đang bị giam giữ tại trại Z30A.

Trân Văn: Thưa anh Truyển, hồi nãy, anh có đề cập đến tù tôn giáo. Ở Z30A có sự phân biệt giữa tù chính trị và tù tôn giáo (?) và tù tôn giáo là gì?

Nguyễn Bắc Truyển: Khi vào phân trại số 1, tôi có gặp sáu, bảy anh em được gọi là tù tôn giáo của Phật giáo Hòa Hảo. Sáu, bảy anh em đó thường bị kết tội về những tội như là: “Gây rối trật tự công cộng” hay “chống người thi hành công vụ”… Do đó khi vào trại giam thì những anh em đó không được giam chung với tù chính trị mà bị giam chung với tù hình sự.

Nhưng như tôi đã nói với anh, những người đó cũng là những tù nhân lương tâm. Họ ở tù lâu thì cũng ảnh hưởng đến anh em tù hình sự vì nhân cách của họ, rất là thương yêu, rất là tương trợ nhau, rất là trung thực... Vì vậy, lâu ngày, anh em tù hình sự cũng bị ảnh hưởng thôi.

Khi tôi qua phân trại số 2, tù chính trị bị giam riêng thì tù tôn giáo khoảng ba người cũng vẫn bị giam chung với tù hình sự và đó là sự phân biệt của những người quản lý nhà tù.

“Tiêu chuẩn đầu tiên là phải thành khẩn nhận tội. Muốn được giảm án là phải nhận tội, không nhận tội là không bao giờ được giảm án.


Ông Nguyễn Ngọc Quang
Trân Văn: Thưa anh Truyển, nếu tính chung các phân trại thì Z30A còn khoảng bao nhiêu tù chính trị?

Nguyễn Bắc Truyển: Khi tôi về cách nay hai tháng thì phân trại số 2 còn khoảng 40 người tù chính trị được giam thành một khu riêng. Ba người tù tôn giáo được giam chung với các anh em tù hình sự.

Ở phân trại số 1 còn đâu khoảng mười người tù tôn giáo và chính trị. Phân trại số 4 chủ yếu là nữ, có giam mấy chị là tù tôn giáo và vài người tù chính trị. Phân trại số 5 thì tôi không được biết.

Đó là những người tôi được biết trong trại giam Xuân Lộc.

Cuộc trò chuyện với những cựu tù chính trị làm bật ra một số thông tin đáng chú ý khác. Đó là vì sao tù hình sự lại thương yêu và kính trọng tù chính trị và tù tôn giáo? Vì sao chính quyền Việt Nam phải cách ly tù hình sự với tù chính trị? Những thắc mắc này sẽ được các cựu tù chính trị giải đáp trong bài kế tiếp. Mời quý vị đón nghe.

***

Đặc tả nhân quyền theo kiểu Việt Nam (phần 3)
Trân Văn, thông tín viên RFA
2010-08-09
Một số cựu tù chính trị vừa được trả tự do hồi cuối năm ngoái, hoặc mới được trả tự do cách nay vài tháng, cùng khẳng định rằng, trong tù, tù hình sự rất thương yêu, kính trọng tù chính trị và tù tôn giáo.


Photo courtesy of Vietnamville.ca

Anh Nguyễn Ngọc Quang cùng Thu Trâm Đứng bên giường bệnh khi MS Nguyễn Hồng Quang thăm bệnh Chị Bích Khương, ảnh chụp tháng 6 năm 2010.
Đồng thời, các cựu tù chính trị cũng cho biết chính quyền Việt Nam đang áp dụng chính sách cách ly tù chính trị với tù hình sự.


Những chi tiết này khác biệt hoàn toàn với những gì người ta từng được biết về nhà tù và tù chính trị tại Việt Nam. Vì sao có sự khác biệt này, mời quý vị theo dõi tiếp bài thứ ba trong loạt bài "Đặc tả nhân quyền theo kiểu Việt Nam"...

Vì sao phải cách ly tù chính trị và tù hình sự?Trong các cuộc trò chuyện với một số cựu tù chính trị, cả ba ông: Nguyễn Hữu Phu, Nguyễn Bắc Truyển, Nguyễn Ngọc Quang cùng đề cập đến một số chi tiết rất đáng chú ý về quan hệ giữa tù chính trị, tù tôn giáo với tù hình sự trong nhà tù. Theo đó, tù hình sự rất thương yêu, kính trọng tù chính trị và tù tôn giáo. Liệu sự thương yêu, kính trọng này có phải là lý do khiến trại giam phải cách ly hoàn toàn tù chính trị với tù hình sự? Chúng tôi nhờ ông – từng bị giam ba năm rưỡi vì tội “Tuyên truyền chống nhà nước CHXHCN Việt Nam” - giải đáp…


“Người tù thường phạm bị ảnh hưởng bởi người tù chính trị khi mà ở chung. Họ sẽ bị thuyết phục bởi việc làm và nhân cách, tinh thần tương trợ cũng như sự kiên cường, không khuất phục bạo quyền.

Ô. Nguyễn Bắc Truyển

Trân Văn: Thưa anh Truyển, tại sao cũng là tù nhưng có sự cách ly giữa tù chính trị với tù thường phạm?

Nguyễn Bắc Truyển: Vấn đề này, tôi có thể trình bày như vầy. Người tù hình sự thì luôn luôn mong muốn được giảm án, tha tù để sớm trở về với gia đình của họ. Do đó, họ luôn luôn e ngại tiếp xúc với chúng tôi, cũng như là trại giam luôn luôn tìm cách cách ly chúng tôi với tù thường phạm.

Tôi có một trải nghiệm khi ở chung với tù thường phạm từ lúc bị tạm giam cho tới ngày 18/4/2008, trước khi chúng tôi bị đưa vào biệt giam… Tôi thấy rằng người tù thường phạm bị ảnh hưởng bởi người tù chính trị khi mà ở chung. Họ sẽ bị thuyết phục bởi việc làm và nhân cách, tinh thần tương trợ cũng như sự kiên cường, không khuất phục bạo quyền, cũng như là không bao giờ xin khoan hồng hay nhận tội, chấp nhận hậu quả mà anh em tù thường phạm hay gọi là “chung đủ” của người tù chính trị.

Ông Nguyễn Bắc Truyển tại trại giam Xuân Lộc trước đây. Photo courtesy of ddcvn.info Tù thường phạm thường nói việc làm của người tù chính trị là vì mọi người, vì đất nước.
Những ai mà xúc phạm đến tù chính trị thường bị những người đại ca trong buồng nhắc nhở là không được làm như thế. Nếu không sẽ bị chính những người đại ca đó xử.
Bản thân tôi nghĩ rằng, những người tù thường phạm cũng là nạn nhân của chế độ thôi, họ cần được thương yêu, cảm hóa chứ không phải là phân biệt, khinh rẻ!
Cựu tù chính trị Nguyễn Ngọc Quang - từng bị giam ba năm vì tội “Tuyên truyền chống nhà nước CHXHCN Việt Nam” - tiết lộ: Trước đây, họ tưởng rằng có thể dùng anh em giang hồ để khủng bố tù nhân chính trị cho nên người ta nhốt chung nhưng không ngờ rằng, khí phách của những người tù chính trị đã thu phục được tù thường phạm và từ đó có những cuộc nổi loạn.

Tù chính trị được tù thường phạm rất là yêu thương. Cho nên sau này, người ta tách rời tù chính trị khỏi tù thường phạm. Tôi nghe nói khoảng 1984-1985 là bắt đầu tách riêng rồi. Tách riêng rất lâu rồi vì họ biết được tù chính trị có sức thuyết phục rất mạnh đối với tù thường phạm. Vì vậy cho nên họ không nhốt chung.
Cuộc phản kháng năm 2007Như vậy là sự thương yêu, kính trọng mà tù hình sự dành cho tù chính trị có thể dẫn đến tình huống, tù chính trị tác động, chi phối tù hình sự? Việc trại giam phải cách ly hoàn toàn tù chính trị với tù hình sự chính là nhằm ngăn ngừa những cuộc phản kháng tập thể? Chúng tôi tiếp tục nêu ra các thắc mắc với ông Nguyễn Hữu Phu - từng bị giam 10 năm vì tội “Hoạt động nhằm lật đổ chính quyền nhân dân”…

Trân Văn: Thưa anh, trong thực tế, đã có một số nơi, tù hình sự được dùng như một phương tiện để cải tạo tù chính trị. Thế thì tại sao ở Z30A lại có chuyện cách ly giữa tù chính trị với tù hình sự?


Ông Nguyễn Hữu Phu. Photo courtesy of thongtinberlin.de Nguyễn Hữu Phu: Vấn đề cách ly giữa tù chính trị với tù hình sự ở Z30A là vì tù chính trị có ảnh hưởng lớn với tù hình sự.

Trân Văn: Anh có thể cho một hoặc một số dẫn chứng về ảnmh hưởng của tù chính trị với tù hình sự không?

Nguyễn Hữu Phu: Tất cả những quy chế trại giam mà nhà trại không thực hiện thì tù chính trị đều đấu tranh để bảo vệ quyền lợi sống riêng và chung trong trại giam và bảo vệ được quyền lợi của người tù hình sự cho nên người tù hình sự rất là mong muốn được người tù chính trị bảo vệ.

Trân Văn: Trên thực tế, tại trại Z30A, đã có bao giờ người tù chính trị và người tù hình sự cùng lên tiếng để đòi hỏi quyền lợi chính đáng cho mình không? Nếu có thì sự kiện đó là sự kiện gì, xảy ra vào thời điểm nào?

Nguyễn Hữu Phu: Tôi không nhớ cụ thể về thời gian nhưng khoảng năm 2007, trong một buổi họp đầu tuần tại K3, tù chính trị và tù hình sự đã cùng nhau đòi hỏi nhà trại, buộc nhà trại phải thỏa mãn những yêu sách chính đáng.

Nhà trại đã trấn áp tù hình sự và tất cả tù chính trị, tù hình sự đã ruýt vào hội trường, đòi gặp giám thị trại giam là Nguyễn Trung Vinh.
Trân Văn: Thưa anh, sự kiện đó kéo dài trong bao lâu và kết quả cuối cùng là như thế nào?

Nguyễn Hữu Phu: Sự kiện đó kéo dài trong một buổi sáng. Sau đó, ông NguyễnTrung Vinh vào và có hứa hẹn nhưng mà không giải quyết, không đáp ứng hoàn toàn, hứa hẹn nhưng rồi không đáp ứng. Họ đã đưa một số tù chính trị, tù hình sự đứng dậy đấu tranh, cách ly ra các trại giam khác xa hơn.

Liệu có thể tìm thêm thông tin về cuộc phản kháng năm 2007 của tù chính trị và tù hình sự tại trại giam Z30A? Chúng tôi quay trở lại với ông Nguyễn Bắc Truyển…

Trân Văn: Anh có nói đến tác động của tù chính trị, theo như tôi được biết, năm 2007, hình như là do tác động của tù chính trị, mà tù nhân tại trại Z30A đã từng chiếm hội trường của một phân trại trong trại giam này?

Nguyễn Bắc Truyển: Thưa anh, tôi biết rõ việc này là bởi vì tôi đã được nghe những anh em tham gia cuộc đấu tranh đó kể lại khi tôi vào phân trại số 1. Chuyện đó xảy ra ở phân trại số 3. Khi tôi vào phân trại số 1 thì tôi gặp anh Trần Hoàng Giang và anh Nguyễn Văn Phương. Hai anh này có kể tôi nghe về sự kiện xảy ra ở phân trại số 3. Sau đó những người tù chính trị tham gia cuộc đấu tranh đó với anh em tù thường phạm đều bị thuyên chuyển hết. Chuyển qua các phân trại khác, đi biệt giam, hoặc như anh Trần Hoàng Giang, anh Nguyễn Văn Phương thì bị chuyển ra phân trại số 1.


“Tù chính trị được tù thường phạm rất là yêu thương. Cho nên sau này, người ta tách rời tù chính trị khỏi tù thường phạm.

Ô. Nguyễn Ngọc Quang

Trân Văn: Lý do tại sao có sự phản kháng, diễn biến của sự phản kháng và kết cục của sự phản kháng đó như thế nào?

Nguyễn Bắc Truyển: Anh em kể lại như vầy anh! Hôm đó, tù thường phạm bị chèn ép, bị áp đặt, bị cưỡng bức lao động quá mức nên phản kháng lại bằng cách lên hội trường, không đi lao động. Họ biết rằng là chắc chắn họ sẽ bị đàn áp nên họ mới kêu những người tù chính trị ở phân trại số 3 hỗ trợ cho họ.

Anh biết rồi, tù chính trị ở phân trại số 3 cũng bị giam riêng. Do đó, để ra được, anh em phải leo hàng rào. Khi đến nơi thì những người cán bộ trại giam đã bắt đầu đàn áp những người tù thường phạm rồi. Khi có mặt những người tù chính trị, những người cán bộ trại giam đã ngừng đàn áp và rút về một phía. Bên kia là anh em tù thường phạm và tù chính trị.
Anh em tù thường phạm và tù chính trị mới bao vây khu vực hội trường và đóng cửa hội trường lại. Nghĩa là “nội bất xuất, ngoại bất nhập”, không cho cảnh sát trại giam vào thêm nữa và cũng không để cảnh sát trại giam trong hội trường bước ra.
Hai bên nói chuyện với nhau trong hội trường thì diễn tiến rất là căng thẳng… Sau đó thì ông giám thị trại giam khi ấy là ông Nguyễn Trung Vinh phải vào và phải hứa hẹn giải quyết các yêu cầu của những anh em tù thường phạm…
Sau đó, anh biết rồi, luôn luôn “đánh nguội”, những người tù thường phạm và tù chính trị chỉ huy bị thuyên chuyển qua các trại giam khác hoặc đi xa hơn, hoặc đi về các phân trại khác thuộc trại giam Xuân Lộc… Đó là những điều mà tôi biết.
Đến lúc này, các cuộc trò chuyện với ba cựu tù chính trị cùng hướng vào một nhân chứng, người được cho là nắm giữ nhiều bí mật về tương quan giữa nhà tù với tù chính trị. Nhân chứng này đã từng được công luận nhắc đến, song câu chuyện về ông vẫn còn nhiều tình tiết khiến người ta ngỡ ngàng và đó sẽ là nội dung bài thứ tư. Mời quý vị đón theo dõi.

***

Đặc tả nhân quyền theo kiểu Việt Nam (phần 4)
Trân Văn, thông tín viên RFA
2010-08-09
Khi trò chuyện với Trân Văn, cả ba cựu tù chính trị: Nguyễn Hữu Phu, Nguyễn Bắc Truyển, Nguyễn Ngọc Quang cùng đề cập đến một người, vừa được cho là nắm giữ nhiều thông tin liên quan đến tù chính trị, vừa có cảnh ngộ hết sức đặc biệt.


Photo courtesy of Qtnlt-Blog

Ông Nguyễn Bắc Truyển đến chúc mừng Ông Trương Văn Sương vừa ra tù, ảnh chụp tháng 7 năm 2010.

Nhân vật này đã từng được công luận nhắc đến, song câu chuyện về ông vẫn còn nhiều tình tiết khiến người ta ngỡ ngàng. Mời quý vị theo dõi Trân Văn tường trình tiếp…

Chân dung một người tù
Hôm 12 tháng 7, ông Trương Văn Sương, 67 tuổi – người vẫn được biết đến như tù nhân bị chính quyền Việt Nam giam cầm lâu nhất vì lý do chính trị đã được tạm tha để về nhà chữa bệnh.


“Theo như tôi biết, đến nay, anh Cầu ở tù 34 năm ba tháng, hơn 35 năm “giải phóng”, anh Cầu ở ngoài đâu chừng 1 năm, 1 tháng gì đó thôi.

Ô. Nguyễn Ngọc Quang
Tuy nhiên, qua một số thông tin do các cựu tù chính trị tiết lộ thì ông Trương Văn Sương không phải là trường hợp cá biệt. Trong khi ông Trương Văn Sương bị giam giữ tổng cộng 33 năm và vừa được tạm tha thì tại trại giam Z30A, vẫn còn một nhân vật khác mà tính đến nay, thời gian bị cầm giữ vì lý do chính trị đã lên tới 34 năm ba tháng. Tên người tù đặc biệt này là Nguyễn Hữu Cầu. Ông được xem như một huyền thoại tại trại giam Z30A.

Vì gần như tất cả tù chính trị từng bị giam giữ tại trại giam Z30A đều có một khoảng thời gian nhất định sống bên cạnh ông Nguyễn Hữu Cầu, nên chúng tôi đã phỏng vấn một số người nhằm tìm thêm thông tin về người tù đặc biệt này. Câu chuyện bắt đầu từ ông Nguyễn Bắc Truyển…

Trân Văn: Thưa anh Truyển, theo anh, vì sao ông Nguyễn Hữu Cầu ở tù lâu như vậy?

Nguyễn Bắc Truyển: Trong thời gian tôi ở chung với anh Nguyễn Hữu Cầu tại phân trại số 2, trại giam Xuân Lộc, anh Cầu thường tâm sự với tôi về vụ án của anh thì tôi thấy rằng, vụ án của anh Cầu là một vụ án oan sai. Nguyên do là vì anh tố giác những việc làm tồi bại của các quan chức tỉnh Kiên Giang nên ảnh bị chụp cái mũ là phá hoại, rồi bị kết án tử hình, sau thì xuống chung thân và ảnh đã ở 28 năm rồi, chuẩn bị bước vào năm thứ 29.


Ông Nguyễn Hữu Cầu. Photo courtesy of Blog 1nguoiviet. Trong thời gian ở trại giam Xuân Lộc, anh Nguyễn Hữu Cầu đã làm hơn 500 lá đơn yêu cầu xem xét lại vụ án nhưng những người có trách nhiệm trong bộ máy nhà nước đã che giấu và phớt lờ.

Khi tôi ra tù thì anh Cầu có nhờ tôi cùng với gia đình làm đơn gửi tới các vị có trách nhiệm nhưng cho tới nay, chúng tôi không nhận được bất kỳ sự hồi âm nào.

Thật sự là những người trong guồng máy nhà nước hiện nay đã thấy được cái sai của những người tiền nhiệm, nhưng họ không muốn gánh trách nhiệm để giải oan cho anh Cầu và anh Cầu tiếp tục phải ngồi tù vì những con người không có can đảm nhận lấy trách nhiệm minh oan cho anh.
Và kế đó là cuộc trao đổi với ông Nguyễn Hữu Phu, một cựu tù chính trị khác…

Trân Văn: Anh đã từng bị giam chung với ông Nguyễn Hữu Cầu và anh có thể cho biết tại sao có rất nhiều trường hợp được giảm án nhưng ông Nguyễn Hữu Cầu thì không?

Nguyễn Hữu Phu: Tôi không được ở gần anh Cầu nhiều lắm. Tôi ở tù 10 năm nhưng ở gần anh Cầu không tới một năm vì ông Cầu thường được cách ly ở những nơi khác.

Theo sự nhận biết của riêng tôi, ông Cầu không được giảm án vì dường như là ông Cầu biết quá nhiều vấn đề sai trái của trại Z30A. Anh Cầu luôn luôn lên án và đòi hỏi nhà trại phải giải quyết những vấn đề đó cho nên nhà trại thấy vướng mắc, muốn giữ anh Cầu, không cho anh Cầu ra ngoài, sợ anh Cầu tung ra giữa công luận ở trong và ngoài nước.

Cựu tù chính trị Nguyễn Ngọc Quang cũng xác nhận: Tôi biết anh Cầu từ ngày mùng 7 tháng 10 năm 2008 cho đến ngày mùng 3 tháng 9 năm 2009.

Trân Văn: Anh có biết vì sao anh Cầu đi tù không?

Nguyễn Ngọc Quang: Anh Cầu đi tù bởi năm 1982, anh cùng với một số bạn bè phát hiện ra rất nhiều tội ác của những người có chức vụ cao trong chính quyền tỉnh Kiên Giang như là Phó Chủ tịch tỉnh, hoặc là Viện trưởng Viện Kiểm sát nhân dân tỉnh,… đã buôn bán ma túy, rồi bán bãi cho tàu vượt biên, rồi hiếp dâm những người phụ nữ vượt biên mà họ bắt được với rất nhiều chứng cứ. Đặc biệt là anh Cầu có sáng tác một số bản nhạc, một số bài thơ trước cái ác của chính quyền Kiên Giang và trước sự tàn bạo của Cộng sản, ảnh không chịu được, ảnh bức xúc và ảnh thể hiện cái cảm xúc của mình qua những bài hát, những bài thơ đó và ảnh hát cho bạn bè của ảnh nghe.


“Trong thời gian ở trại giam Xuân Lộc, anh Nguyễn Hữu Cầu đã làm hơn 500 lá đơn yêu cầu xem xét lại vụ án nhưng những người có trách nhiệm trong bộ máy nhà nước đã che giấu và phớt lờ.

Ô. Nguyễn Bắc Truyển

Rồi Tòa án tỉnh Kiên Giang ghép ảnh vào cái tội là “phá hoại”. Nó kết án ảnh tử hình. Về sau xử lại giảm xuống chung thân.

Việc anh Cầu ở tù cho đến hôm nay chưa ra là tại vì ảnh nắm giữ quá nhiều bằng chứng về tội ác của các quan chức cao cấp của tỉnh Kiên Giang và sau khi ảnh vô tù, ảnh biết được những bằng chứng mà các quản tù rồi những cán bộ trại giam đã gây ra ở trong tù là cho sản xuất pháo lậu, cho nấu rượu lậu, rồi những âm mưu thâm độc, giết tù chính trị bằng cách cho lây nhiễm HIV qua tù chính trị để giết người ta dần dần… Rất nhiều tội ác như thế cho nên là họ không thể thả anh Cầu ra.

Tính anh Cầu rất khí khái. Phải nói anh rất kiên cường. Chắc chắn ảnh sẽ không ngậm miệng khi ảnh được ra. Ở đây tôi xin mở ngoặc nói thêm một điều như thế này là, trước Tết năm vừa rồi, trại giam có đề nghị anh Cầu viết đơn xin đặc xá nhưng anh Cầu ảnh không viết. Nhất định anh không viết vì anh nói viết đơn xin đặc xá coi như đồng nghĩa với nhận tội.

Trân Văn: Tính cho đến ngày hôm nay thì ông Cầu đã ở tù bao nhiêu năm?

Nguyễn Ngọc Quang: Theo như tôi biết, đến nay, anh Cầu ở tù 34 năm ba tháng, được chia làm hai lần. Lần thứ nhất, sau khi miền Nam sụp đổ, anh Cầu ở tù cho đến cuối năm 1980, anh Cầu là một đại úy tâm lý chiến, cuối năm 1980, anh Cầu được thả. Đầu năm 1982, anh Cầu bị bắt lại. Hơn 35 năm “giải phóng”, anh Cầu ở ngoài đâu chừng 1 năm, 1 tháng gì đó thôi.
Truy nã cả thánh thần

“Tết năm vừa rồi, trại giam có đề nghị anh Cầu viết đơn xin đặc xá nhưng anh Cầu ảnh không viết. Nhất định anh không viết vì anh nói viết đơn xin đặc xá coi như đồng nghĩa với nhận tội.

Ô. Nguyễn Ngọc Quang

Điểm đáng chú ý là trong cuộc trò chuyện với cựu tù chính trị Nguyễn Ngọc Quang, ông Quang tiết lộ, ông có cáo trạng của hai lần xét xử ông Nguyễn Hữu Cầu về tội “Phá hoại”. Ông Quang khẳng định: Tôi sẽ đọc lại bản cáo trạng và chịu trách nhiệm khi đọc lại cho anh.

Trân Văn: Cáo trạng đó là cáo trạng trong phiên phúc thẩm hay là trong phiên sơ thẩm?

Nguyễn Ngọc Quang: Phiên sơ thẩm và phúc thẩm chỉ sai lệch nhau tí xíu thôi. Nội dung tôi sắp đọc đây là có cả trong phiên phúc thẩm và phiên sơ thẩm. Tôi đọc cho anh nghe một đoạn: “Tên Nguyễn Hữu Cầu đã cấu kết với tên Anan và tên Ca Diếp. Mua dầu cho Anan và Ca Diếp để vượt biên. Hiện tại thì Anan đã vượt biên và Ca Diếp đang trốn tại Khánh Hòa, khi nào bắt được sẽ xử lý sau”.

Đó là một đoạn. Anan và Ca Diếp là hai đệ tử của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni trong thời Đức Phật tại thế. Ấy thế mà nó cũng nói cho bằng được là ông Nguyễn Hữu Cầu cấu kết với Anan và Ca Diếp.


Ông Nguyễn Ngọc Quang đến thăm Ông Trương Văn Sương vừa ra tù, ảnh chụp tháng 7 năm 2010. Photo courtesy of Qtnlt-Blog. Tôi xin đọc tiếp một đoạn nữa:“Tên Nguyễn Hữu Cầu đã sáng tác ra bài ‘Giọt nước mắt Chúa’, với nội dung ca ngợi đế quốc Mỹ và còn mơ tưởng sự quay trở lại của đế quốc Mỹ, cầu ‘bơ thừa, sữa cặn’. Bài ‘Giọt nước mắt Chúa’ có nội dung như sau: Lạy Cha chúng con ở trên Trời, chúng con nguyện danh Cha cả sáng. Nước Cha trị đến. Ý Cha thể hiện dưới đất cũng như trên trời. Xin Cha cho chúng con hôm nay lương thực hàng ngày và tha nợ chúng con như chúng con cũng tha kẻ có nợ chúng con. Xin chớ để chúng con sa chước cám dỗ nhưng cứu chúng con ra khỏi sự dữ. Amen. Nguyễn Hữu Cầu đã coi đế quốc Mỹ như là Cha trên Trời”.

Đấy! Hệ thống tư pháp của Việt Nam đã lôi bài kinh Lạy Cha của toàn thể tín đồ Kytô trên toàn thế giới ca ngợi Đức Chúa Trời gán cho anh Cầu là bài “Giọt nước mắt Chúa”.

Những thông tin về ông Nguyễn Hữu Cầu khiến người ta liên tưởng đến tuyên bố mới nhất của ông Nguyễn Văn Hưởng, Thượng tướng, Thứ trưởng Bộ Công an Việt Nam, qua bài viết “Hãy hiểu đúng về nhân quyền Việt Nam!”, đăng trên Tạp chí Nhân Quyền số đầu tiên, phát hành hồi tháng 6 năm 2010. Theo đó, ông Hưởng bảo rằng, không thể mang quan điểm nhân quyền của những quốc gia khác áp đặt thành tiêu chuẩn cho Việt Nam. Vì mỗi quốc gia có bản sắc văn hóa riêng, có luật pháp riêng nên không thể lấy hình mẫu ‘nhân quyền’ của nước này đem sang nước khác được.

Vậy bản sắc văn hóa và luật pháp của chính quyền Việt Nam về nhân quyền thể hiện trên tù chính trị và trong các trại giam còn điểm nào khác đáng phải quan tâm? Mời quý vị đón theo dõi bài kế tiếp.

***

Đặc tả nhân quyền theo kiểu Việt Nam (phần 5)
Trân Văn, thông tín viên RFA
2010-08-10
Trong bài trước, một số cựu tù chính trị đã kể về trường hợp ông Nguyễn Hữu Cầu, 63 tuổi nhưng có đến 34 năm 3 tháng sống trong trại giam.


Photo courtesy of vietland.net/J.B Nguyen Huu Vinh

Luật sư Lê Thị Công Nhân, một nhà bất đồng chính kiến bị kết án 4 năm tù và 3 năm quản chế. Cô ra khỏi nhà tù vào tháng 3/2010. Trong ảnh: Cô tham dự Thánh lễ vọng Phục sinh 2010 tại Thái Hà.


Theo tuyên bố của Việt Nam, dù Việt Nam sẽ đặc xá từ 25.000 đến 30.000 phạm nhân nhân dịp kỷ niệm 65 năm ngày thành lập Nhà nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam, nhưng những người tù chính trị như ông Cầu sẽ không được xem xét để đặc xá.

Trong khi đó, dựa trên các thông tin do một số cựu tù chính trị cung cấp, hiện có khá nhiều tù chính trị già yếu, kiệt sức vì bị giam cầm nhiều năm, thậm chí đã có không ít người chết trong tù, Trân Văn sẽ tiếp tục tường trình thêm về vấn đề này…

Bất đồng chính kiến thì 80 cũng phải “chung đủ”
Cuối tháng 12 năm ngoái, nhân dịp Cục Quản lý trại giam của Bộ Công an Việt Nam được tặng danh hiệu “Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân”, tờ Công an nhân dân công bố một thống kê, theo đó, từ năm 2000 đến nay, hệ thống trại giam trên toàn Việt Nam đã xét giảm thời hạn chấp hành hình phạt tù cho khoảng 375.000 lượt phạm nhân được cho là “cải tạo tiến bộ”, và đã tổ chức thành công 13 đợt đặc xá, tha tù trước thời hạn cho khoảng 100.000 phạm nhân được cho là “cải tạo tốt”.



“Những người như anh Đỗ Thanh Nhàn, trên 80 tuổi rồi, án 20 năm gì đó, cũng ở 13, 14 năm rồi… Còn rất là nhiều người lớn tuổi mà án nặng!

Ô. Nguyễn Bắc Truyển



Nếu không kể những trường hợp được cộng đồng quốc tế quan tâm đặc biệt và liên tục thúc giục trả tự do thì trong số hàng trăm ngàn phạm nhân được xét giảm thời hạn chấp hành hình phạt tù và đặc xá, hoàn toàn không có tù chính trị.

Gần đây, ngoài ông Trương Văn Sương được trại giam Nam Hà tạm tha để điều trị bệnh tật, trong vài tuần qua, việc có thêm một vài người tù chính trị như các ông: Nguyễn Anh Hào, Đinh Quang Hải trở về với gia đình là vì họ mãn hạn tù.

Chúng tôi tiếp tục nêu những vấn đề về nhà tù và tù chính trị với ông Nguyễn Bắc Truyển…

Trân Văn: Số người bị phạt án cao còn nhiều không anh?

Nguyễn Bắc Truyển: Nhiều lắm anh ơi! Những người này là những người lớn tuổi. Trong đó, tôi có thể kể tên là: anh Nguyễn Hữu Cầu – quá nổi tiếng, chắc là anh biết rồi ha. Anh Nguyễn Tấn Nam, năm nay 74 tuổi, đang bị tai biến, án 19 năm, ở cũng 13, 14 năm rồi. Những người như anh Đỗ Thanh Nhàn, trên 80 tuổi rồi, án 20 năm gì đó, cũng ở 13, 14 năm rồi… Còn rất là nhiều người lớn tuổi mà án nặng!

Trân Văn: Thưa anh Truyển, anh có biết số tù chính trị lớn tuổi và đã chết vì kiệt sức ở Z30A là bao nhiêu người?

Nguyễn Bắc Truyển: Tôi chưa thấy người tù chính trị nào qua đời hết nhưng tôi được nghe anh em nói lại là trong khoảng từ năm 2000 cho đến trước khi tôi về thì có khoảng từ 13 cho đến 15 người đã qua đời trong trại giam Z30A với đủ loại bịnh hết.

Một âm mưu?

Bốn nhà dân chủ Trần Huỳnh Duy Thức, Nguyễn Tiến Trung, Lê Thăng Long và Lê Công Định tại TAND TPHCM hôm 20/1/2010. AFP photo Ông Nguyễn Bắc Truyển bị đưa về trại Z30A và ở tại đó khoảng hai năm. Liệu những người tù chính trị bị giam giữ lâu hơn tại Z30A có thể cung cấp nhiều thông tin hơn về vấn đề này? Chúng tôi đã hỏi thêm ông Nguyễn Hữu Phu…

Trân Văn: Ở trại giam Z30A thì có những phân trại nào giam tù chính trị?

Nguyễn Hữu Phu: Tôi ở trong đó từ năm 2000 đến năm 2009 thì có phân trại K3 và K2.

Trân Văn: Cho đến thời điểm anh được trả tự do thì còn khoảng bao nhiêu tù chính trị?

Nguyễn Hữu Phu: Còn khoảng 40 người.

Trân Văn: Thưa anh, những tù chính trị ở lâu nhất trong trại Z30A gồm có những ai?

Nguyễn Hữu Phu: Gồm có anh Nguyễn Hữu Cầu, anh Lê Văn Tính, bị kết án 20 năm và anh ở từ năm 1996. Anh Trương Công Duy, chung thân. Anh Lê Văn Thân, chung thân. Anh Nguyễn Kim Hùng, chung thân. Anh Trần Long Đức, 20 năm. Còn án 19, 18 năm tù thì cũng nhiều đấy anh ạ. Anh Bùi Đăng Thúy, 19 năm. Anh Nguyễn Tuấn Nam, 18 năm. Đa số, trở lui là 15, 16, 17 năm tù thì tôi không nhớ hết anh ạ vì số lượng đó cũng đông.

Trân Văn: Thưa anh, số tù chính trị chết trong trại giam có nhiều không?

Nguyễn Hữu Phu: Tổng số tù chính trị chết trong trại giam từ năm 2000 cho đến năm 2009 là 13 người.

Trân Văn: Anh còn nhớ được tên những người đó không?

Nguyễn Hữu Phu: Nhớ không hết, không nhớ được họ anh ạ! Còn tên thì có thể nhớ gần hết. Bác Năm Tân, Năm Căn. Ông Trước ở Đà Lạt. Anh Nguyễn Văn Dũng. Anh Lê Văn Xuân. Anh Nguyễn Sĩ Bằng. Anh Lê Văn Thân đầu bạc. Anh Ngô Anh Tuấn. Anh Trần Văn Tuấn. Anh Bình, không biết họ. Anh Thanh, không biết họ… Anh cứ ghi cho rõ là 13 người.

Trân Văn: Thưa anh Phu, những người tù chính trị đã chết thì vì sao họ chết?

Nguyễn Hữu Phu: Thứ nhất, họ ở tù quá lâu và điều kiện sống của giai đoạn trước 2005 rất thấp kém.

Trân Văn: Họ chết do kiệt sức?


“Tôi không phải trong ngành y cho nên tôi không xác định được bệnh trạng để nói rõ nhưng mà trong số người chết, có thể đặt vấn đề là có thể lây nhiễm HIV để chết ngay trong tù.

Ô. Nguyễn Hữu Phu



Nguyễn Hữu Phu: Do kiệt sức. Rồi trong đó có một điều mà chúng tôi thường lên án là từ năm 2000 cho đến 2005, nhà trại không cho người tù chính trị dùng dao cạo riêng mà buộc phải dùng chung dao cạo khi hớt tóc, cho nên có những người trẻ vẫn chết vì lây nhiễm SIDA.

Trân Văn: Nhiễm SIDA từ tù hình sự?
Nguyễn Hữu Phu: Cái này không biết từ đâu nhưng mà có những người già vào ở tù một vài năm cũng bị lây và chết. Chúng tôi đã đấu tranh liên tục từ năm 2000 cho đến năm 2005 nhà trại mới cho chúng tôi mua lưỡi lam và cạo riêng.

Tôi không phải trong ngành y cho nên tôi không xác định được bệnh trạng để nói rõ nhưng mà trong số người chết, có thể đặt vấn đề là có thể lây nhiễm HIV để chết ngay trong tù.

Trân Văn: Xin hỏi thêm một câu, đó là những người tù đã chết thì xác của họ sẽ được chôn ở trong trại hay trả lại cho thân nhân?

Nguyễn Hữu Phu: Thường là chôn ba năm mới cho thân nhân đến nhận.

Trân Văn: Như vậy là có một nghĩa trang riêng của tù nhân?

Nguyễn Hữu Phu: Dạ, có một nghĩa trang riêng của tù nhân.
Trân Văn: Thưa anh, hiện nay, những người tù lớn tuổi nhất thì là bao nhiêu?


“Tôi chỉ nói với các anh như thế này, nếu như trại K2, Z30A mà tình trạng kéo dài như thế thì chắc là những người già không chịu nổi đâu.

Ô. Nguyễn Hữu Phu

Nguyễn Hữu Phu: Đa số là gần 80, có người đã 78, 79 tuổi rồi anh.

Trân Văn: Người trẻ nhất khoảng bao nhiêu?

Nguyễn Hữu Phu: Thời gian tôi còn ở trong đó, trẻ nhất là Trương Quốc Huy, 26, 28 tuổi.

Trước khi kết thúc cuộc trò chuyện, ông Nguyễn Hữu Phu nhấn mạnh: "Tôi chỉ nói với các anh như thế này, nếu như trại K2, Z30A mà tình trạng kéo dài như thế thì chắc là những người già không chịu nổi đâu".
Tin mới nhất từ các cựu tù chính trị cho biết, ông Trần Văn Thiêng, một người tù chính trị 75 tuổi, bị kết án 19 năm tù, sau khi lâm trọng bệnh, sức khỏe suy kiệt, hồi giữa tháng 6 đã được gia đình bảo lãnh đưa ra chữa chạy ở bên ngoài dưới sự giám sát của trại giam, và cách nay hai tuần vừa bị đưa trở lại Z30A, bất kể điều đó đe dọa tính mạng của ông. Vào lúc này, gia đình ông đang cầu cứu khắp nơi.

Những người tù chính trị cần gì và mọi người có thể làm gì cho họ? Đó sẽ là nội dung bài cuối cùng của loạt bài này. Mời quý vị đón xem.


***

Đặc tả nhân quyền theo kiểu Việt Nam (phần 6)
Trân Văn, thông tín viên RFA
2010-08-12
Qua các cuộc trò chuyện với Trân Văn, một số cựu tù chính trị đã cung cấp khá nhiều thông tin về nhà tù và tù chính trị.


Photo courtesy of tiengnoitudodanchu.org

Tù chính trị Nguyễn Anh Hào vừa ra khỏi nhà tù tháng 7/2010


Thế còn ở góc độ cá nhân, người tù chính trị cần gì và người ta có thể làm gì cho họ? Trân Văn có cuộc trao đổi với ông Nguyễn Bắc Truyển…


Giá của sự dấn thân

Trân Văn: Thưa anh Truyển, tù chính trị chấp nhận mất tự do cá nhân vì lý tưởng của họ nhưng họ có nghĩ đến gia đình của họ không?

Hình như anh có quan hệ khá rộng đối với gia đình của nhiều tù chính trị. Theo anh biết thì họ nghĩ gì về chồng, về cha, về con, về anh, về em của mình?

Ai cũng biết, thiếu vắng người thân là một sự thiệt thòi nhưng sự thiệt thòi cả về vật chất lẫn tinh thần đối với thân nhân của tù chính trị thì cụ thể ra sao?

Nguyễn Bắc Truyển: "Tôi nghĩ bất cứ người tù chính trị nào cũng thương nhớ gia đình hết. Trong đó, cái thứ nhất là tình cảm chứ không phải là vật chất.

Xin đừng nghĩ rằng những người hoạt động chính trị khô khan. Họ rất là tình cảm, rất là lãng mạn. Nếu không có sự lãng mạn đó thì họ không thể tồn tại trong môi trường khắc nghiệt được.

Họ đấu tranh là để mang lại tự do cho dân tộc. Gia đình và người thân của họ cũng có phần trong đó. Tôi đã chứng kiến nhiều lần cảnh người tù chính trị nhận tin người thân của mình qua đời. Nỗi đau có thể nói là nhân lên gấp trăm, gấp ngàn lần. Tôi cũng từng đau đớn khi nghe mẹ của nhà tôi mất. Tôi nghĩ rằng tôi cũng có phần trách nhiệm trong đó, khi mà mẹ tôi sống trong nỗi lo lắng, buồn đau khi có một người con rể phải chịu tù đày.


“Theo tôi thì chúng ta nên có những chương trình thiết thực cho người tù chính trị như là đề nghị với nhà nước CSVN cho các tổ chức nhân quyền, tổ chức y tế vào thăm và khám bịnh theo định kỳ.

Ô. Nguyễn Bắc Truyển


Có những trường hợp trông đợi gặp vợ của mình trong nhiều năm, để rồi có một ngày, con thông báo rằng vợ đã qua đời rồi…

Khi tôi trở ra ngoài xã hội, tôi rất quan tâm đến những gia đình có người đang bị ở tù, nhứt là tù chính trị. Tôi muốn tìm tới họ, động viên họ, nói với họ rằng hãy vượt qua nỗi sợ hãi, hãy đi thăm những người thân của mình trong tù. Bởi vì đó là cách bảo vệ cho người tù, giúp họ chống lại sự ngược đãi và đàn áp của trại giam, cũng như là động viên tinh thần họ.

Gia đình của những người tù nên liên kết lại với nhau để giúp đỡ nhau, để bảo vệ, động viên nhau.

Có khi người tù chính trị cũng là trụ cột của gia đình nên khi họ bị bắt, bị kết án, gia đình của họ có khả năng bị ly tán, bị tan vỡ. Nhiều gia đình sống trong cảnh nghèo khổ mà tôi cũng đã có lần tiếp cận. Rồi người thân của họ phải chịu nhiều thiệt thòi. Trong một số trường hợp còn bị địa phương ngược đãi, gây khó khăn trong cuộc sống."

Trân Văn: Theo anh, người tù chính trị cần gì nhất và điều thiết thực nhất mà người ta có thể làm được cho tù chính trị là gì?

Nguyễn Bắc Truyển: "Có thể nói rằng người tù chính trị cần sự quan tâm. Họ cũng có một nỗi lo rằng họ sẽ chết ở trong đó mà mọi người không biết họ là ai và quên lãng họ.

Không đơn thuần là vấn đề vật chất đâu vì vật chất là điều mà anh em có thể tự bươn chải, gói ghém, san sẻ với nhau được nhưng sự không quan tâm mới làm cho họ buồn.


Từ trái qua: Nhà dân chủ Nguyễn Tiến Trung, Blogger Điếu cày, Blogger Người Buôn Gió. Photo courtesy of nguoibuongio.multiply.com Tuy nhiên họ cũng có thể vượt qua những trở ngại đó để vững vàng, kiên định trên con đường đấu tranh.

Theo tôi thì chúng ta nên có những chương trình thiết thực cho người tù chính trị như là đề nghị với nhà nước CSVN cho các tổ chức nhân quyền, tổ chức y tế vào thăm và khám bịnh theo định kỳ. Rồi liên hệ với các gia đình của tù chính trị để giúp đỡ gia đình có tài chánh đi thăm tù chính trị thường xuyên nếu mà họ quá nghèo. Khi họ mãn hạn tù, trở ra ngoài xã hội thì nên giúp đỡ họ có công việc, phương tiện để sinh sống, cũng như chăm sóc sức khỏe cho họ.

Đó là những gì tôi nghĩ rằng có thể thiết thực đối với người tù chính trị."

Ngay vào lúc này, một trong những điều khiến ông Nguyễn Bắc Truyển bận tâm nhiều nhất, đó là chưa làm tròn sự ủy thác của những người bạn tù muốn chu toàn lời hứa với những bạn tù khác đã chết trong tù. Ông Truyển kể:

"Lúc tôi chuẩn bị về thì anh em có chuẩn bị cho tôi một vài cái tên của những gia đình có tù nhân chính trị chết ở trong trại giam nhưng rất tiếc là tôi không thể tìm được họ bởi vì gia đình họ đã ly tán rồi. Họ đã chuyển đi những nơi khác mà không để lại dấu vết gì hết. Tôi có hỏi hàng xóm và tôi để lại số điện thoại của tôi. Tôi dặn dò là nếu có bất kỳ thông tin gì về họ, xin vui lòng cho tôi nhưng cho đến nay, đã trên hai tháng rồi mà tôi không nhận được bất kỳ thông tin nào về những thân nhân của tù chính trị đã chết."

Hòa giải nên bắt đầu từ đâu?
Z30A ở huyện Xuân Lộc, tỉnh Đồng Nai, chỉ là một trong số hàng trăm trại giam những người tù đã có án trên khắp Việt Nam. Đó là chưa kể hệ thống trại tạm giam. Đang có bao nhiêu người vì bất đồng chính kiến, vì kêu đòi dân chủ hoặc tự do tôn giáo mà bị cầm giữ trong những trại giam này? Không ai biết chính xác!



“Có thể nói rằng người tù chính trị cần sự quan tâm. Họ cũng có một nỗi lo rằng họ sẽ chết ở trong đó mà mọi người không biết họ là ai và quên lãng họ.

Ô. Nguyễn Bắc Truyển


Đã có bao nhiêu người thiệt mạng, bao nhiêu gia đình ly tán, thậm chí tan nát? Cũng không ai biết chính xác.

Tình trạng đàn áp, ngược đãi những người bất đồng chính kiến, những người kêu đòi dân chủ hoặc tự do tôn giáo là một sự thật, tồn tại bên cạnh một sự thật khác là những lời kêu gọi hòa hợp, hòa giải của chính quyền Việt Nam. Cách đây chưa lâu, phát biểu trước Việt kiều, ông Nguyễn Minh Triết, Chủ tịch Nhà nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam, tiếp tục tuyên bố:

Trong gia đình, trong bạn bè có lúc cũng còn giận nhau. Bây giờ á… là lúc chúng ta phải gác lại tất cả… Hãy đoàn kết, hãy xây dựng một nước Việt Nam vững mạnh, hùng cường, sánh vai cùng bạn bè năm châu… (tiếng vỗ tay)… Chúng ta hoàn toàn tin tưởng rằng, ý chí Việt Nam, bản lĩnh Việt Nam và sự đoàn kết thống nhất của Việt Nam, chắc chắn là sẽ thành công xây dựng một nước Việt Nam hòa bình, vững mạnh, sánh vai cùng bạn bè năm châu thế giới.

Ai sẽ và ai cần chủ động gác lại tất cả để đoàn kết, để xây dựng một Việt Nam hùng cường?

Hết trích
____________________


Hãy mở mắt, mở tai, mở tâm ra để mà "nghe" mà "thấy" hỡi các ông các bà đạo đức giả, đạo đức thật, hàng ngày vẫn ra rả bênh vực, bao che hay nói đúng ra là tự nguyện làm chó ghẻ tô son trát phấn cho bè lũ chó má cộng sản VN qua chiêu bài hòa giải hòa hợp.

Loạt bài trên, trong phần cuối, người thực hiện chương trình đã đưa cái gọi là lời "tuyên bố" của thằng chó má Việt cộng nguyễn minh triết đã nhổ ra và được lũ chó ghẻ hải ngoại (vịt kiều) liếm vào (vỗ tay) ! Thật là quá TỞM .

Còn nữa, những tên "chính khách nô" đã từng tự nguyện bưng bô cho bè lũ chó má csVN, đã từng bênh vực, bao che TỘI ÁC của tập đòan cộng sản VN, đã từng cho rằng lũ chó má csVN đã "không còn phân biệt đối xử với Quân Cán Chính VNCH vào cuối thập niên 80" .. hãy soi gương coi đã mọc nanh thành chó ghẻ chưa, đã trở thành động vật 4 chân chưa, đem bô đi đổ hay lại tiếp tục liếm vào những gì bè lũ chó má csVN đã nhổ ra ? (*)
Và những tên chính khách xôi thịt cũng nên hiểu rằng có luồn trôn lòn háng csVN thì cũng chỉ là chó ghẻ trong mắt lũ chó má này . Bài học của cái gọi là "mặt trận giải phóng Miền Nam" còn chưa đủ thấm ?.

Và người VN còn liêm sỉ, hãy "thử" tự trả lời câu hỏi kết luận của lọat bài trên, có "chấp nhận" cái gọi là "nhân quyền" của tập đòan chó má csVN "khác" Nhân Quyền đúng nghĩa của loài người trên tòan thế giới ngày nay hay không ? có nên bơm hơi tiếp máu duy trì lũ bạo tàn khát máu chó má csVN để chúng tiếp tục ngồi trên đầu trên cổ dân Việt hay không, để chúng an nhiên đọa đày, ăn xương hút tủy dân Việt khốn cùng và BUÔN DÂN BÁN NƯỚC ??


(*) Không phải là "phân biệt đối xử " mà là trả thù . Lũ vô lọai csVN đã thi hành chính sách trả thù Quân Cán Chính VNCH theo đúng bản chất nham hiểm, tàn độc, khát máu và tận cùng chó má của chúng nó cho đến ngày hôm nay vẫn còn đang tiếp diễn .



Chân thành cám ơn Quý Anh Chị ghé thăm "conbenho Nguyễn Hoài Trang Blog"
Xin được lắng nghe ý kiến chia sẻ trực tiếp của Quý Anh Chị tại Diễn Đàn Paltalk: 1Latdo Tapdoan Vietgian CSVN Phanquoc Bannuoc .
Kính chúc Sức Khỏe Quý Anh Chị .



conbenho
Tiểu Muội quantu
Nguyễn Hoài Trang
30082010
_________________
Đừng nghe những gì bè lũ chó má csVN nói, hãy nhìn kỹ những gì bè lũ chó má csVN làm .